Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên (24-3-1975) và những quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương sau đó đã mở ra bước ngoặt quyết định cho toàn bộ cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 đi đến toàn thắng.
Xe tăng Quân giải phóng tân công địch trong chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975. Ảnh: TTXVN |
Do vị trí chiến lược quan trọng, bước vào mùa Xuân năm 1975, Tây Nguyên được chọn làm hướng đột phá chiến lược cho cuộc tổng tiến côngtheo kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam, trong đó Nam Tây Nguyên là địa bàn thuận lợi để thực hiện ý định ban đầu giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột làm bàn đạp.
Thực hiện ý đồ chiến lược này, trong khi địch bố trí lực lượng mạnh ở khu vực phía bắc Tây Nguyên, còn khu vực phía nam mỏng hơn (gồm Sư đoàn bộ binh 23, 7 tiểu đoàn biệt động quân, 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn, 230 khẩu pháo, 150 máy bay thuộc Quân đoàn 2-Quân khu 2), ta tập trung lực lượng áp đảo ngay khu vực trọng điểm (5 sư đoàn bộ binh 10, 320, 316, 3, 968 và 14 trung đoàn pháo, đặc công, phòng không, xe tăng, công binh, thông tin và lực lượng vũ trang địa phương) đạt tỉ lệ áp đảo ta-địch là bộ binh 5/1, pháo lớn 2/1, xe tăng 2/1.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên (mật danh A275) được thành lập (ngày 5-2-1975) do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh; diễn biến chiến dịch cơ bản có 4 bước với 3 trận then chốt.
Theo đó, từ ngày 4-9-3-1975, đánh cắt giao thông trên các trục đường 14, 19, 21, tiêu diệt các chi khu quân sự (Cẩm Ga, Buôn Hồ, Đức Lập…) thực hiện nghi binh và chia cắt chiến lược lực lượng địch ở Tây Nguyên, cô lập Buôn Ma Thuột.
Từ ngày 10-11-3-1975, thực hiện trận then chốt mở màn, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành quy mô lớn tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, phá vỡ thế chiến lược của địch, tạo ra đột biến về chiến lược, mở ra thời cơ mới.
Từ ngày 12-17-3-1975, thực hiện trận then chốt quan trọng đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 và các lực lượng địch ứng cứu hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, giữ vững thành quả, đẩy địch vào tình thế bị động đối phó từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Từ ngày 17-24-3-1975, thực hiện trận then chốt quyết định đánh truy kích lực lượng Quân đoàn 2- Quân khu 2 của địch, biến cuộc rút quân của chúng trên đường số 7 thành cuộc tháo chạy hỗn loạn và bị tiêu diệt hoàn toàn, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.
Chỉ trong 20 ngày (4-24-3), chiến thắng ở Tây Nguyên không chỉ giải quyết hàng loạt mục tiêu quân sự, chính trị trên chiến trường chiến lược quan trọng này mà còn tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển chiến dịch (xuống các tỉnh ven biển miền Trung, mở chiến dịch Huế-Đà Nẵng) và mở ra thời cơ chiến lược để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975.
Có thể thấy chưa chiến dịch nào trong chiến tranh thời hiện đại, Quân đội ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều hình thức tác chiến như chiến dịch Tây Nguyên: Đánh chia cắt giao thông, đánh thị xã, chi khu, đánh địch phản đột kích, đánh địch rút chạy; tổ chức nghi binh tạo thế trận, thu hút, giam chân chủ lực địch trên hướng thứ yếu (bắc Tây Nguyên), tập trung tạo ưu thế binh lực trên hướng chủ yếu (nam Tây Nguyên), thực hiện bao vây, chia cắt từng cụm cứ điểm, kết hợp đột phá với luồn sâu, thọc sâu, hiệp đồng binh chủng, trong ngoài cùng đánh, phá vỡ hệ thống phòng thủ kiên cố của địch, kéo chúng ra ngoài công sự kiên cố để tiêu diệt, vận động tiến công tiêu diệt địch khi rút chạy…
Tính đến ngày 3-4-1975 (tròn 1 tháng mở chiến dịch Tây Nguyên), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 2-Quân khu 2 địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 12 vạn quân, thu và phá hủy hàng trăm máy bay, hàng ngàn xe quân sự, giải phóng hơn 60.000 đồng bào các dân tộc thuộc 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức) cùng một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hòa). Chính phía Mỹ thừa nhận những đòn đánh ở Tây Nguyên của Quân Giải phóng là “những đòn hiểm không có cách gì chống đỡ và không có phép gì hồi phục được”.
Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng và thế chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Trong đó, ta có vùng chiến lược Tây Nguyên rộng lớn làm bàn đạp vững chắc và cơ động, chiếm ưu thế về địa hình và thế trận hiểm để đánh xuống duyên hải miền Trung, mở ra hành lang chiến lược thuận lợi để tiến xuống Sài Gòn, đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch.
Hệ thống phòng thủ của địch bị phá vỡ. Chiến trường miền Nam bị chia cắt thành hai cụm (Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn), chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và rơi vào tình trạng hoàn toàn bị động.
Trên toàn chiến trường miền Nam, tương quan so sánh lực lượng địch tuy còn rất mạnh nhưng không thể chi viện cho Tây Nguyên vì chúng đã bị kìm giữ ở hai đầu chiến tuyến. Tại Tây Nguyên, lực lượng Quân đoàn 2-Quân khu 2 của địch còn nguyên nhưng bị “vô hiệu hoá” vì bị chia cắt, khống chế. Tại Buôn Ma Thuột, địch rơi vào tình thế hoàn toàn bị cô lập, lực lượng mỏng, yếu, ít có khả năng chi viện cho nhau và phải chịu thất bại nặng nề.
Chiến thắng Tây Nguyên làm rung chuyển chiến lược của địch, đưa chiến tranh vào bước ngoặt quyết định; mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, phát triển thành cuộc tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trước tình hình phát triển đột biến về thế và lực, dẫn đến xuất hiện thời cơ chiến lược đến nhanh và chín muồi, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp nhận định: “Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này”. Từ đó Bộ Chính trị đi đến 3 quyết định quan trọng.
Một là hạ quyết tâm “nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng, binh khí, kỹ thuật vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay, giải phóng miền Nam trước mùa mưa”.
Hai là thành lập Hội đồng chi viện miền Nam với nhiệm vụ huy động và động viên, vận chuyển sức người, sức của thật đầy đủ, kịp thời để đáp ứng mọi yêu cầu của miền Nam trong tình hình mới.
Ba là quyết định mở Mặt trận Quảng-Đà (mật danh Mặt trận 475) tiêu diệt toàn bộ quân địch co cụm tại mục tiêu chủ yếu là Đà Nẵng, mở thông hành lang duyên hải miền Trung và tạo thuận lợi cho quân và dân ta đánh đòn quyết định cuối cùng ở Sài Gòn.
Đồng chí Lê Duẩn trong “Thư vào Nam” ngày 27-3-1975 chỉ đạo: “Chiến thắng oanh liệt ở Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên đã tạo ra thời cơ giải phóng Đà Nẵng… Trong lúc này, thời gian là lực lượng. Phải hành động hết sức táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay”.
Sáu ngày sau (ngày 31-3-1975), Bộ Chính trị họp, nhận định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở Tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”.
Tình hình diễn ra đúng như Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đã dự báo và chỉ đạo: “Phải theo dõi, nắm chắc tình hình, tình hình có thể xảy ra đột biến, phải hết sức chủ động hành động, không chờ lệnh cấp trên, thời cơ có thể diễn ra rất nhanh, không được do dự, chậm trễ”.
Thượng tướng, GS. Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, trong cuốn “Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng” đã viết: “Chiến thắng Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã tạo sức mạnh toàn diện mới. Điều quan trọng là nó đã tạo ra sự thay đổi cơ bản về tinh thần, tư tưởng, về so sánh lực lượng, về thế chiến lược giữa ta và địch”.
Căn cứ Đức Lập bị Quân giải phóng tiêu diệt. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam |
Những trận then chốt trong chiến dịch Tây Nguyên mở đầu đòn chiến lược tháng 3-1975, đã tạo ra điều kiện và thời cơ mới cho các trận then chốt mới của các chiến dịch nối tiếp giành thắng lợi lớn hơn của quân và dân ta. Với thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và những quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương từ thắng lợi to lớn ấy, đã mở ra bước ngoặt quyết định cho toàn bộ cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 đi đến toàn thắng.
Theo Baochinhphu.vn