Qua đợt khảo sát các doanh nghiệp XNK vừa qua của Sở Công thương (trên 30 doanh nghiệp) nhằm đề xuất thành phố cho vay từ Quỹ đầu tư phát triển cho thấy rằng, đa số các doanh nghiệp Nhà nước sau khi CPH hoạt động tương đối hiệu quả, đóng góp tốt vào ngân sách Nhà nước.
Giày thể thao, một mặt hàng xuất khẩu của ngành Công nghiệp. |
Doanh thu của các doanh nghiệp bình quân 448 tỷ đồng/năm, đơn vị thấp nhất là 35 tỷ đồng, cao nhất là trên 1.100 tỷ đồng (Công ty CP Cao su Đà Nẵng), giá trị SXCN bình quân 164,6 tỷ đồng/doanh nghiệp, số nộp ngân sách bình quân 15,5 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp đều lãi bình quân 7,5 tỷ đồng/doanh nghiệp, thấp nhất là 300 triệu đồng và cao nhất là 13,6 tỷ đồng.
Các doanh nghiệp dân doanh của thành phố thường có quy mô nhỏ hơn khối DNNN đã cổ phần cả về vốn, doanh thu, lợi nhuận. Tổng vốn kinh doanh bình quân 27,7 tỷ đồng (trong đó Công ty Phước Tiến có vốn tương đối 111 tỷ đồng), doanh thu bình quân 40,6 tỷ đồng/năm (cao nhất là Công ty Duy Thành 100 tỷ đồng và thấp nhất là 4 tỷ đồng), giá trị SXCN bình quân 28,6 tỷ đồng/doanh nghiệp, đóng góp ngân sách bình quân 200 triệu đồng.
Có một số doanh nghiệp lãi bình quân 200 triệu đồng, cao nhất là 630 triệu đồng (Công ty CP Thủy sản Nhật Hoàng) và thấp nhất là 130 triệu đồng. Tuy nhiên, doanh nghiệp dân doanh có nhiều lợi thế hơn như có thể thích ứng nhanh với thị trường, linh hoạt trong điều phối sản xuất kinh doanh, đặc biệt là thời kỳ lạm phát… nhưng khả năng tiếp cận vốn tín dụng gặp những khó khăn, hạn chế nhất định, trừ những doanh nghiệp có truyền thống và uy tín.
Giá trị sản xuất công nghiệp tư nhân Đà Nẵng cải thiện rõ rệt về quy mô phát triển, doanh số năm 2008 ước đạt 3.341 tỷ đồng, tăng gần 70% so với năm 2007. Hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân tập trung sản xuất, kinh doanh ở một số ngành nghề như: chế biến thủy sản, dệt may, cơ khí… Tổng mức bán lẻ ước đạt 17.787 tỷ đồng, trong đó khu vực tư nhân chiếm trên 85% giá trị.
Bên cạnh việc tập trung khai thác lợi thế thương mại, kinh tế tư nhân còn đầu tư lớn trong lĩnh vực vận tải. Năm 2008, khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 294,8 triệu người/km, tăng 10,4% so với năm 2007. Nhìn chung, với sự thông thoáng về cơ chế, chính sách phát triển các thành phần kinh tế trong xu thế hội nhập, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố đã không ngừng cải thiện quy mô và chất lượng phát triển, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế-xã hội, huy động vốn đầu tư phát triển, giải quyết việc làm.
Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao, còn mang tính tự phát, chưa có chiến lược, kế hoạch và chương trình sản xuất, kinh doanh cụ thể; cơ cấu, quy mô còn nhỏ; hạn chế trong việc tiếp cận thông tin hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu, quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế, chậm đổi mới, cải tiến mẫu mã…
Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu rất cần sự quan tâm hơn nữa đến công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, thương mại trong nước và nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư từ các nước Nhật, Mỹ, Hàn Quốc và châu Âu – là các thị trường giàu tiềm năng.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính khi xuất khập khẩu hàng hóa và giảm phí vận chuyển qua cảng, hoặc bỏ phí luồng lạch, giảm giá dịch vụ hàng hải như hoa tiêu, tàu lai dắt..., tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu giảm bớt chi phí vận tải biển nhằm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, thu hút đầu tư.
Bài và ảnh: ĐỨC THỊNH