.
DỰ THẢO LUẬT NHÀ, ĐẤT

Nhà ở dưới 600 triệu đồng sẽ không thu thuế

.

LTS: Trong 2 ngày 21 và 22-8, tại Đà Nẵng, Bộ Tài chính đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến về dự thảo Luật Thuế tài nguyên và Luật Thuế nhà, đất. Bên lề hội thảo, P.V Báo Đà Nẵng đã có cuộc trao đổi với ông PHẠM ĐÌNH THI (P.Đ.T), Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính về một số nội dung về thuế nhà, đất được bạn đọc quan tâm.

* P.V: Thưa ông, ông có thể cho biết đối tượng chịu thuế theo dự thảo Luật Thuế nhà, đất lần này có gì thay đổi so với Pháp lệnh Thuế và Luật Đất đai năm 2003?

(Ảnh tư liệu)

- Ông P.Đ.T: Về đối tượng chịu thuế nhà, đất bao gồm: Nhà ở, đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Khác với quy định của Pháp lệnh Thuế nhà, đất hiện hành quy định đối tượng chịu thuế là đất ở, đất xây dựng công trình. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đất đai 2003 thì nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm: Đất ở, đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất SXKD phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng… Do đó, dự thảo Luật quy định đối tượng chịu thuế là đất ở, đất SXKD phi nông nghiệp để bảo đảm phù hợp với Luật Đất đai năm 2003.

Mặt khác, Pháp lệnh Thuế nhà, đất quy định tạm thời chưa thu thuế nhà do tình hình KT-XH tại thời điểm ban hành Pháp lệnh Thuế chưa cho phép thu thuế đối với nhà. Song những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích, phát triển nhà ở như: Luật Đất đai năm 2003 tạo điều kiện cho phát triển nhà, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, đã tạo được hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua…

Theo đó, thị trường bất động sản về nhà, đất được hình thành và trên đà phát triển, trên thị trường xuất hiện nhiều loại nhà như chung cư cao cấp đắt tiền, văn phòng cho thuê, các loại hình nhà gần kề, nhà biệt thự… đồng thời cũng xuất hiện tình trạng đầu cơ về nhà, đất, đẩy giá nhà, đất lên cao không hợp lý mà chưa có công cụ để điều tiết. Do đó, dự thảo Luật bổ sung thêm quy định thu thuế đối với nhà ở.

* P.V: Vậy, đối tượng không thuộc diện chịu thuế có gì thay đổi không, thưa ông?

- Ông P.Đ.T:
Pháp lệnh Thuế nhà, đất quy định không thu thuế đối với đất sử dụng vì mục đích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện không vì mục đích kinh doanh và đất chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức không vì mục đích kinh doanh hoặc để ở.

Trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh Thuế nhà, đất, dự thảo Luật Thuế nhà, đất lần này cũng đưa các loại đất này vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Bên cạnh đó, còn bổ sung thêm một số loại đất như đất làm nghĩa trang, nghĩa địa không vì mục đích kinh doanh; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối không vì mục đích kinh doanh.

Ngoài ra, dự thảo Luật cũng chuyển một số đối tượng thuộc diện miễn thuế theo quy định của Pháp lệnh Thuế nhà, đất như đất xây dựng trụ sở cơ quan hành chính, sự nghiệp Nhà nước, tổ chức xã hội, công trình văn hóa, đất chuyên dùng vào mục đích quốc phòng và an ninh vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế, nhằm giảm bớt thủ tục hành chính trong quá trình đăng ký, kê khai thuế, giảm chi phí trong quá trình quản lý thu.

* P.V: Thưa ông, giá tính thuế và thuế suất thuế nhà, đất được quy định như thế nào?

- Ông P.Đ.T:
Theo dự thảo, giá tính thuế nhà ở được xác định theo diện tích nhà ở chịu thuế và giá của 1m2  nhà ở. Trong đó, diện tích nhà ở là toàn bộ diện tích sàn xây dựng (kể cả diện tích công trình phụ, diện tích ban công kèm theo nếu có) của một căn hộ chung cư hoặc nhà ở theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất, trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận thì theo diện tích thực tế đã xây dựng hoàn thành hoặc đang sử dụng. Còn giá của 1m2 nhà ở sẽ có 2 phương án tính thuế như sau:

Phương án 1: Đối với nhà ở mới xây dựng: Giá của 1m2 nhà ở được xác định căn cứ theo đơn giá nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại (kể cả trường hợp sử dụng nhà ở để cho thuê hoặc kinh doanh) do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Hiện nay, đơn giá nhà xây dựng mới được xác định dựa vào khung suất vốn đầu tư xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành hàng năm, UBND cấp tỉnh, thành ban hành suất vốn đầu tư cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình.
 
Đối với nhà ở đã sử dụng: Giá của 1m2 nhà ở là đơn giá 1m2  nhà ở xây dựng mới của nhà ở cùng loại do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định, trừ đi tỷ lệ từ 2% đến 5% đơn giá cho mỗi năm đã sử dụng, tùy theo cấp nhà ở, nhưng mức trừ tối đa không quá 80% đối với nhà ở cấp I, 90% nhà ở cấp II, cấp III và cấp IV.

Phương án 2: Quy định giá tính thuế nhà không phân biệt giữa nhà đã sử dụng và nhà mới. Giá tính thuế của 1m2 nhà ở được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên đơn giá 1m2 nhà xây dựng mới của nhà ở cùng loại (kể cả trường hợp sử dụng nhà ở để cho thuê hoặc kinh doanh) do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.

Về thuế suất: Đối với nhà ở, dự thảo Luật áp dụng giá khởi điểm tính thuế đối với nhà ở là 600 triệu đồng, tức là nhà ở có giá tính thuế dưới 600 triệu đồng là không thu thuế. Giá khởi điểm tính thuế đối với nhà ở được xây dựng dựa trên cơ sở lấy định mức 37,5m2/1người và bình quân 1 hộ gia đình có 4 nhân khẩu. Theo đó diện tích khởi điểm chịu thuế là 4 người x 37,5m2 = 150 m2 và giá 1m2  nhà xây dựng mới là khoảng 4 triệu đồng (150m2 x 4 triệu đồng = 600 triệu đồng).
 
Mức thuế suất được áp dụng chung là 0,03%, như vậy nếu nhà ở có giá tính thuế từ trên 600 triệu đồng thì tính thuế trên toàn bộ giá trị thuế của nhà ở. Hoặc có thể áp dụng thuế suất theo biểu thuế lũy tiến từng phần, giá tính thuế của nhà ở dưới 600 triệu có thuế suất 0% và giá tính thuế của nhà ở trên 600 triệu có thuế suất 0,03%.

Đối với đất: Đối với đất ở nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở, nhà chung cư, đất SXKD phi nông nghiệp áp dụng mức thuế suất 0,03%. Đối với đất ở hộ gia đình, cá nhân, có 3 phương pháp tính thuế: Phương án 1 là áp dụng mức thuế suất 0,03% cho tất cả các loại đất.

Phương án 2 là áp dụng mức thuế suất 0,06% đối với phần diện tích vượt hạn mức quy định (hạn mức này do UBND tỉnh, thành quy định, hiện nay hạn mức này ở vào mức khoảng 150m2/hộ cho khu vực đô thị và 350m2/hộ đối với khu vực nông thôn). Phương án 3 là áp dụng mức tính thuế lũy tiến từng phần như đã nói ở trên, chỉ khác rằng với diện tích vượt hạn mức lên trên 3 lần thì sẽ tính mức thuế suất là 0,09%.

* P. V: Cảm ơn ông.

THÀNH LÂN (Thực hiện)

;
.
.
.
.
.