.

Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, còn doanh nghiệp…

Cuộc vận động “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” đến nay đã thu được những thành công nhất định. Nhiều DN nhờ chủ trương này mà “thoát hiểm” trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu lâm vào suy thoái. Cũng qua chủ trương đúng đắn này đã giúp cho nhiều DN “ngộ” ra những điều hết sức quý báu rằng, với một đất nước có trên 80 triệu dân, đó là một thị trường vô cùng tiềm năng, một đất nước mà trên 70% dân số tập trung ở vùng nông thôn, miền núi thì đó cũng là đặc điểm đáng lưu ý trong việc đầu tư sản xuất, kinh doanh của các DN. Chính vì vậy, nhiều DN đã quyết định chuyển hướng chiến lược đầu tư từ xuất khẩu sang chiếm lĩnh thị trường trong nước.

Thành công này trước hết là nhờ chủ trương rất đúng đắn và kịp thời của Đảng, Nhà nước, là sự chung tay góp sức của giới truyền thông tuyên truyền vận động người tiêu dùng trong nước sử dụng các sản phẩm do DN trong nước sản xuất; là sự nỗ lực của chính các DN trong việc nâng cao chất lượng, mẫu mã hàng hóa, giá cả phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng, kèm theo chính sách hậu mãi phù hợp. Tuy nhiên, trên hết chính là sự ủng hộ của chính người tiêu dùng Việt Nam, đã mua và sử dụng hàng hóa do các DN trong nước sản xuất, thay vì những sản phẩm ngoại nhập.

Thế nhưng rất tiếc, có không ít DN trong lúc hô hào người tiêu dùng hãy sử dụng sản phẩm của mình, thì chính họ lại đi sử dụng  hàng hóa của nước ngoài mà trong nước sản xuất được. Đã có trường hợp rất phản cảm như khi đưa hàng hóa về vùng nông thôn để bán, thì từ chiếc ô-tô, đến quần áo mặc trên người của các chủ DN đều là… hàng ngoại nhập.

Đặc biệt, tại phòng làm việc của ban giám đốc nhiều DN, từ chiếc bàn làm việc đến điện thoại cố định, điều hòa nhiệt độ hay bức tranh trên tường đều là hàng nhập hoặc hàng “cầm tay” từ nước ngoài về. Thậm chí, có không ít DN sính ngoại đến mức đưa thông báo giảm giá đến người tiêu dùng trong nước cũng dùng từ tiếng Anh kiểu như “20% sale off” thay vì “giảm giá 20%”.

Thật đáng trách những “con sâu làm rầu nồi canh” kiểu như vậy!       

Thanh Sơn

;
.
.
.
.
.