.

Chuyện “núi Ấn, sông Đà”

.

Giữa năm 1908, khi đang bị giam ở nhà lao Hội An chờ ngày đi đày, Huỳnh Thúc Kháng viết Bài Ca lưu biệt, trong đó có hai câu: “Nọ núi Ấn, này sông Đà/ Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt”. Không phải ai cũng hiểu đúng hai câu này.

Mộ Huỳnh Thúc Khánh ở núi Thiên Ấn, Quảng Ngãi. Ảnh: V.T.L
Huỳnh Thúc Kháng là nhà chí sĩ kiệt xuất của đất Quảng Nam, người làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, phủ Hà Đông; nay thuộc xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Từ nhỏ ông nổi tiếng học giỏi, đỗ đầu cả hai kỳ thi Hương năm Canh Tý (1900) và kỳ thi Hội năm Giáp Thìn (1904). Sau khi đỗ Tiến sĩ năm 1904, ông không ra làm quan mà ở nhà cùng các đồng chí đồng hương như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp… khởi xướng Phong trào Duy tân ở Quảng Nam.

Năm 1908, phong trào kháng thuế nổ ra ở Quảng Nam, rồi lan sang nhiều tỉnh của miền Trung, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án khổ sai chung thân, đày đi Côn Đảo. Giữa năm 1908, khi đang bị giam ở nhà lao Hội An chờ ngày đi đày, ông viết Bài Ca lưu biệt trong đó có hai câu: “Nọ núi Ấn, này sông Đà/ Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt”. “Núi Ấn” (Ấn Sơn) là ngọn núi giáp giới hai huyện Duy Xuyên và Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam), đỉnh núi như hình cái ấn vuông sắc đỏ; còn gọi là núi Chúa vì trên đó có đền thờ bà Chúa Ngọc Tiên Nương. “Sông Đà” tức là sông Đà Nẵng (Đà giang), lúc đó dùng để chỉ các sông Hàn và Cẩm Lệ ngày nay.

Cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đang là Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt), được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đi kinh lý Trung Trung Bộ, kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Trên đường công tác, ông bị bệnh và mất ở Quảng Ngãi. Do đường sá xa xôi, chiến tranh bùng nổ nên ông được an táng trên núi Thiên Ấn, nhìn xuống con sông Trà Khúc thơ mộng của Quảng Ngãi. Mộ ông hiện vẫn còn ở đấy và được công nhận là Di tích văn hóa lịch sử quốc gia, một địa điểm du lịch của Quảng Ngãi.

Nhiều người không rõ nguồn gốc của hai câu thơ trên nên đã hiểu sai “núi Ấn” thành núi Thiên Ấn và viết sai “sông Đà” thành “sông Trà”. Từ đó, có người lại cho rằng Cụ Huỳnh đã “tiên tri” là mình sẽ được an táng ở “núi Ấn, sông Trà” để dệt gấm thêu hoa cho non sông Quảng Ngãi (!).

Nhân kỷ niệm 61 năm Ngày mất của Cụ Huỳnh (21-4-1947 - 21-4-2008), xin được giới thiệu nguyên văn “Bài ca lưu biệt”, như một nén nhang tưởng nhớ công đức người xưa:

Trăng trên trời khi tròn khi khuyết/ Người ở đời sao khỏi tiết gian nan/ Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an (Kẻ trượng phu dù gặp hoàn cảnh nào cũng yên tâm chấp nhận)/ Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn (Gặp hoạn nạn thì xử trí theo hoạn nạn)/ Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn (Trên đường đi trời luôn có mắt)/ Thâm tiêu do hứa mộng hoàn gia (Đêm khuya còn chiêm bao thấy về lại nhà)/ Bấy nhiêu năm ngẫm cũng chưa già/ Nọ núi Ấn, này sông Đà/ Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt/ Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt/ Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu?/ Một mai kia con tạo khéo cơ cầu/ Thảy bốn bể cũng ở trong bầu trời đất cả/ Ư bách niên trung tu hữu ngã (Trong cõi trăm năm đành có ta)/ Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả/ Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn/ Trăng kia khuyết đó lại tròn…

LÊ THÍ

;
.
.
.
.
.