.
Tưởng nhớ 10 năm ngày mất nhà thơ Bùi Giáng (7-10-1998 -7-10-2008)

Còn không một bận quay về

.

1- Trong số tài liệu tôi còn giữ được khi làm việc tại Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, có một ít giấy tờ, thư từ liên quan đến Bùi Giáng.

Ngày 7-7-1993, tôi đại diện Nhà xuất bản gửi đến ông thư xin phép in lại tập thơ Mưa nguồn của ông. Tôi gửi 2 bản, nghĩ rằng ông sẽ lưu 1 bản nhưng ngay hôm sau, ông đã gửi lại cả 2 với 2 câu trả lời khác nhau: Ở tờ thứ nhất ông ghi: “Xin trân trọng chấp nhận chuyện này với niềm tri ân vô tận”. Ở tờ thứ 2 ông lại ghi: “Xin chấp thuận đầy đủ 2 tay”. Phía dưới thư, ông ghi thêm: “Gửi cháu Ý Nhi, nếu thấy bài nào trong Mưa nguồn cháu thích thì xin đề tặng Ý Nhi. Có lẽ nên tặng cháu bài cuối cùng trong tập: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không”.

Ngày 29-5-1995, tôi lại gửi thư đến ông xin phép in lại tác phẩm Sylvia Souvenirs du Valois của Gérard Nerval, do ông chuyển ngữ với tựa tiếng Việt là Mùi hương xuân sắc. Ông trả lời bằng 2 câu thơ: “Kính thưa nương tử Ý Nhi. Toàn nhiên quyết định cái nhu mì của con”.

Tháng 10-1993, sau khi Mưa nguồn in xong, ông viết thư cho tôi: “Thân gửi cô Ý Nhi. Thấy tập thơ Mưa nguồn in thật đẹp, tôi thật cảm động....”. Sau đó, ông lại gửi một thư khác: “...Cháu tùy ý làm gì cũng được cả, tác phẩm thơ đó của chú nghe xa xôi quá, cũng như những kỷ niệm về ba má cháu. Chú thỉnh thoảng có gặp thầy Huỳnh Lý và cô Lý. Con đầu thầy Lý tên là Tùng...” ( Huỳnh Lý là giáo sư Huỳnh Lý, em ruột ông nội tôi, bạn của Bùi Giáng từ ngày trước. Thực ra, con đầu của giáo sư Huỳnh Lý tên Lê, đã hy sinh).

Vài lần khác, ông ghé lại Nhà xuất bản, không gặp tôi thì gửi lại thư, bằng thơ.

Một bức viết: Chiêm bao xẻ ngọn chia ngành

Buồn vui vô tận

Biến thành như không.

Hẹn gặp cô Ý Nhi lần khác.

Bức kia là:

Cậy em vô tận bây giờ

Ý Nhi từ buổi sơ đầu gặp nhau

Anh đi như gió phai màu

Buồn vui như thể mộng đầu éo le

Bùi Giáng thường viết chữ rất to, chỉ vài câu đã hết một trang giấy. Nét chữ của ông cứng cỏi, phóng khoáng.

2- Tôi có nhiều mối quan hệ họ hàng với Bùi Giáng. Một người cậu ruột và một người dì ruột của tôi thành thân với một người chị ruột và một người anh ruột của ông (Bà Bùi Thị Dung và ông Bùi Luận). Tuy vậy, tôi chỉ được nghe kể về Bùi Giáng, sau khi in Mưa nguồn tôi mới được gặp ông. Có lần Bùi Giáng cho người vào cơ quan gọi tôi ra quán nước đầu hẻm. Ông bảo việc này (việc xin tục bản Mưa nguồn) nên bàn ở bên ngoài thì tiện hơn. Rồi ông cười, nụ cười móm mém, hóm hỉnh, ánh nhìn hấp háy, tinh anh.

Thường thì ông vào thẳng văn phòng Nhà xuất bản ở 371/16 Hai Bà Trưng. Tại đây, ông gặp Tô Thùy Yên, Thế Phong, Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đức Sơn và nhiều bạn bè văn nghệ khác. Có lần, ông và họa sĩ Nghiêu Đề đứng đổi áo ngay chỗ cửa ra vào. Cả hai đều có vẻ hoan hỉ vì cuộc “Yêu nhau cởi áo cho nhau”. Nghe nói Nghiêu Đề đã đem chiếc áo của Bùi Giáng về Mỹ để khoe với bè bạn.

Hình ảnh Bùi Giáng những lần ghé lại Nhà Xuất bản Hội Nhà văn có thể phác họa thế này: Chân đất lấm lem, dép đeo lủng lẳng trước ngực, áo xống lôi thôi, quần đem quấn quanh đầu... lúc thì lặng lẽ đem tặng một chậu cảnh, lúc lại hét lên từ ngoài cửa: Đỡ trẫm xuống.

Mỗi lần đến, ông hay đòi giấy bút để làm thơ. Cô nhân viên thường trực đã chuẩn bị sẵn cho ông một cuốn vở học trò để ông ghi lại những câu thơ bất chợt đến, với nét chữ ngày một run rẩy. Lúc nhận nhuận bút Mưa nguồn, ông ghi 2 chữ “Zách ồ” vào chỗ ký nhận, ông bảo nhiều tiền quá nên ghi vậy.

Có lần ông hỏi thăm ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà thơ Trinh Đường. Ông bảo, Trinh Đường tên thật là Trương Đình. Vì lúc ấy ở Quảng Nam đã có Nguyên Đình làm thơ nên Trinh Đường mới đổi tên thành bút danh như vậy. Ông còn nhớ Trinh Đường con ông bà nào, ở đâu. Nghe kể lại, Trinh Đường lấy làm lạ về trí nhớ của Bùi Giáng.

Mỗi lần ông đến tôi thường biếu ông ít tiền để đi xe. Có hôm tôi đi vắng, ông hỏi cô nhân viên: Làm gì ở đây. Rồi ông bảo, nhân viên thì cho trẫm 20 ngàn. Ý Nhi thì phải cho 50 ngàn.

Bùi Giáng cũng thường nói đến bệnh điên của chính mình.

Thấy ông quấn quần dài quanh đầu, tôi hỏi: Chú sao vậy. Ông đáp: Bị đánh. Hỏi ai đánh, ông bảo: Mấy đứa thanh niên. Hỏi sao bị đánh, ông đáp: Điên, nói bậy nên bị nó đánh... Có lần ông bảo tôi: Ông Hoàng Châu Ký hồi trẻ đẹp trai lắm. Con vợ trẫm nó mê ổng. Trẫm buồn, thế là trẫm điên luôn. Rồi ông phá lên cười. Ông thừa biết rằng cô Ninh, vợ ông, là con bà dì của ba tôi. Cô Ninh còn có họ hàng bên mẹ tôi, gọi mẹ tôi bằng cô ruột.

Vài tháng trước khi mất, ông ghé lại chỗ tôi. Thấy ông gầy yếu, tôi hỏi: “Chú có khỏe không?”. Ông đáp: “Đỡ điên rồi nhưng yếu lắm” rồi ông chỉ vào bịch ni-lông đựng rượu ở túi áo ngực, nói tiếp: “Cũng ít uống rượu rồi”. Nghe tôi nói đến việc chọn bài Phụng Hiến cho tuyển tập thơ “Trăm năm thơ Đất Quảng”, ông kêu lên: “Trời ơi, sao lúc nào cũng Phụng hiến, Phụng hiến, chọn bài khác đi. Thơ của trẫm phải có cái gì nghịch nghịch, vui vui”.

3- Người ta biết đến Bùi Giáng bởi những khảo luận văn học như những cuốn viết về Truyện Kiều, Chinh Phụ ngâm, Lục Vân Tiên..., bởi những khảo luận triết học như Tư tưởng hiện đại, Tư tưởng hiện đại và Heidgger..., bởi những bản dịch tuyệt vời các tác phẩm của Saint Exupery, Albert Camus, Gérard Nerval...

Nhưng người ta yêu thơ ông hơn cả.

Buồn vui như thể thân mình

Ai chia nửa máu, ai giành nửa xương.

Đó là nỗi buồn vui của Bùi Giáng, nỗi buồn vui khốc liệt, bi thảm của một thân phận khác thường.

Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt. Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em”. Đó là lời giải thích giản dị, minh bạch nhất cho những ai muốn đọc Bùi Giáng, muốn hiểu thơ ông. Một sự sáng suốt phải trả giá như vậy, một niềm yêu phải trả giá như vậy, hẳn phải có điều chi đặc biệt, hẳn đã tạo nên một giá trị riêng biệt.

Mỗi khi đọc những câu thơ hay của Bùi Giáng tôi lại nhớ đến tiếng đàn “rỏ máu năm đầu ngón tay” của Thúy Kiều. Những câu thơ như được chắt ra từ máu huyết, từ nỗi khắc khoải khôn nguôi về thân phận con người, về sợi dây nối kết vừa bền vững vừa mong manh giữa kiếp người với cõi trần gian. Ít ai trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại lại viết nhiều về cõi trần gian như Bùi Giáng. Lúc thì nguyện “Yêu trần gian nguyên vẹn”, lúc thì “Sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi”, lúc khác lại: “Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy. Đời chúng ta là mấy trăng tròn”. Yêu tha thiết cõi trần gian, nhiều khi ông nhìn trời đất như đứa trẻ: “Ngàn mây về cuối mãi trời xa. Nước có bằng lòng đứng đợi ta”, nhiều khi ông bập bẹ: “Trần gian ơi cánh bướm cánh chuồn chuồn. Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại. Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”. Nhiều khi ông thảng thốt: “Ồ gót chân anh đứng ngó như ngây”; ông òa khóc, không gìn giữ: “Em ra đi đời bưng mặt khóc òa”.

Nhưng Bùi Giáng là đứa trẻ biết rằng: “Diều đứt giây trẻ cũng cầm bằng”. Thơ ông từ bài này đến bài khác, từ trang này đến trang khác thấm đượm nỗi lo âu cho “Những thân đau khổ, những đời rã riêng”, “Những nỗi đau về chẳng hẹn giờ”. Ông là con người “Nghe trời đầy xuống hai vai”. Ông gánh chịu gánh nặng đó suốt cả cuộc đời đơn độc của mình. Có khi ông cô đơn như một gã say: “Đời dại khờ như một giấc chiêm bao”, có khi ông lắng nghe “Mấy đời ly biệt vì đau trong mình”, có khi ông van nài: “Em ở lại với đời ta em nhé. Em đừng đi cho ta nắm tay em”... Và nhiều khi ông phấp phỏng, lo âu:

Nhưng em hỡi trần gian ơi ta biết

Sẽ rồi ra vĩnh biệt với người thôi

Và:

Đài Vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ

Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi

Dường như mỗi cảnh, mỗi vật đều in dấu nỗi lo âu, phấp phỏng ấy.

Nào là “Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo”, nào là “Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng”, nào là “Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng. Bóng hình em tơi tả dưới trăng rầm”, nào là “Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai”...

Giờ thì con người luôn yêu thương, lo lắng cho “cõi người ta” ấy đã ra đi. Có lẽ, trước lúc an nghỉ, ông vẫn còn mơ ước:

Còn không một bận quay về

Vườn xưa ngó bóng trăng thề vàng gieo

vẫn giữ nguyên lời nhắn gửi, niềm mong mỏi:

Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt

Thấy một mình người đi lại lang thang

Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt

Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn.

4- Mười năm trước, tại chùa Vĩnh Nghiêm, nơi tổ chức tang lễ Bùi Giáng, trong 2 ngày 9 và 10 tháng 10 năm 1998, đến vĩnh biệt ông là những người bà con ruột thịt, những bạn thơ, những người từng yêu quý mến mộ ông. Nhiều người đã đến và ở lại rất lâu. Nhiều người đã thức thâu đêm để nhắc nhở những kỷ niệm về ông, để đọc những câu thơ của ông. Nhiều ngôi chùa đã gióng chuông tiễn biệt ông.

Giản dị, lặng lẽ, sâu lắng. Đó thực sự là cuộc tiễn đưa một nhà thơ.

Ý NHI

;
.
.
.
.
.