Trái với những lo lắng về một nền văn nghệ thiếu những tác phẩm đỉnh cao vừa được đặt ra tại hội thảo khoa học toàn quốc “Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao” do Hội đồng lý luận VHNT Trung ương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có cái nhìn khá lạc quan.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân |
* Thưa ông, ông quan niệm thế nào là “tác phẩm nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao”?
- Thông thường người ta chỉ có khái niệm tác phẩm có giá trị; mức độ giá trị có thể là xuất sắc, có thể là kiệt tác; ở kiệt tác có tất cả: tư tưởng cao, nghệ thuật cao. Còn khái niệm “tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao” là khái niệm mang tính song đề, tự phía chủ quan những người đề ra khái niệm ấy có thể đã và sẽ phải tự cãi vã bất phân thắng bại giữa hai thuộc tính “giá trị tư tưởng” và “giá trị nghệ thuật”.
Theo tôi, ở những xã hội khôn ngoan, người ta có những lối đo đạc chấp nhận độ “tương đối” rất rộng về giá trị đối với các tác phẩm, từ lúc mới xuất hiện đến suốt về sau. Người ta có thể chấp nhận nhiều phép thử, nhiều kiểu vinh danh đối với các tác phẩm ấy, như các thứ giải thưởng khác nhau, của những tổ chức khác nhau, từ những giám khảo quần chúng đến những giám khảo chuyên gia; lại thêm những thước đo như số lần và số bản in, số bản dịch, số ngôn ngữ được dịch, phạm vi ảnh hưởng…
Rồi qua thời gian, những tên tuổi lớn, tác phẩm lớn sẽ lộ ra dần dần. Nhưng ngay khi đã lộ rõ phẩm chất của kiệt tác, nó có thể vẫn bị những bộ phận công chúng hay chuyên gia nhất định cho là thiếu toàn bích… Như bộ truyện Đi tìm thời gian đã mất của văn hào Pháp Marcel Proust là trường hợp mới đây thường được nhắc đến, nhân 100 năm từ lúc xuất bản tập sách đầu tiên (1913).
* Vâng, cách đánh giá, nhìn nhận nào thì cũng có những phiến diện nhất định. Vậy theo ông, nền văn học nghệ thuật của chúng ta hiện nay có thiếu vắng những tác phẩm đỉnh cao?
- Có và không! Bởi tác phẩm đỉnh cao (xuất sắc, kiệt tác) là kết quả lựa chọn, lắng đọng của thời gian hàng trăm năm, chứ không phải kết quả sự bầu chọn ngay tức khắc. Ta chưa thể biết trong vô số tác phẩm văn nghệ xuất hiện trong vòng dăm chục năm nay của các tác giả Việt Nam có hay không có những kiệt tác.
Ta đang sống ở thập niên thứ hai của thế kỷ 21. Chỉ trong vòng vài chục năm trở lại đây, chúng ta mới xác nhận được một vài kiệt tác văn học người Việt thế kỷ 20, ví dụ về văn xuôi thể truyện là Số đỏ (1936, truyện dài của Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (1941, truyện ngắn của Nam Cao). Vậy là từ sau khi các tác phẩm này xuất hiện, phải mất chừng 50-60 năm, giá trị đỉnh cao của chúng mới được xác nhận.
* Phải chăng ông đang muốn chứng minh ngày nay chúng ta cũng có những tác phẩm xuất sắc?
- Đúng vậy. Năm 1990 xuất hiện tiểu thuyết Thân phận tình yêu (tức Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh. Ngay sau đó giá trị của tác phẩm này được xác nhận bằng giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam. Thế nhưng, cũng chỉ sau đó ít lâu, cuốn truyện này trở thành đề tài phê phán của nhiều tờ báo, đến nỗi một số thành viên từng bỏ phiếu trao giải cho tác phẩm cũng quay ra mạt sát giá trị của nó. Và từ đó, tác phẩm hầu như bị cấm tái bản (tất nhiên là ngấm ngầm). Nhưng rồi cuốn truyện được dịch in ở nhiều nước Âu, Mỹ, được dư luận nước ngoài khen ngợi. Đến năm 2005, sách lại được in trong nước và từ đó được tái bản không ít lần. Đây có phải một kiệt tác không? Rõ ràng đây là tác phẩm xuất sắc, xuất chúng, nhưng có là kiệt tác không thì còn chờ thời gian.
* Cũng có ý kiến cho rằng, một nguyên nhân khá quan trọng dẫn đến chỗ chúng ta thiếu vắng tác phẩm hay, đó chính là vai trò của các nhà phê bình?
- Nếu chưa thể xác quyết trong văn nghệ (hoặc hẹp hơn: văn học) của nước ta vài ba chục năm gần đây có hay không có những tác phẩm đỉnh cao, thì về nguyên tắc, càng chưa thể bàn đến nguyên nhân. Song ở đây, nhân câu hỏi của bạn, cũng có thể bàn đến sự ảnh hưởng thuận lợi hay không đến sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, từ phía hoạt động phê bình và từ phía chế độ đãi ngộ.
Theo tôi, trong đời sống gần đây, hoạt động phê bình trên báo chí vừa có phần đáng ngại, lại vừa có chỗ khả thủ. Điều khả thủ là ở khu vực hẹp của giới phê bình nghiên cứu “hàn lâm”, ở đó những nền nếp ít nhiều bài bản đang được xác lập trở lại; nét đáng khích lệ nhất là khu vực này đang gắng tiếp cận các chuẩn thế giới, nhưng tiếc là chính nó lại ít tác động được đến đời sống văn nghệ trong nước.
* Ông nhắc đến chuyện đãi ngộ văn nghệ sĩ. Một số ý kiến cũng giống như ông, cho đó là nguyên nhân dẫn đến việc chưa có tác phẩm hay?
- Chế độ đãi ngộ cũng đang rất có vấn đề, khi mặt bằng để định giá thù lao, nhuận bút đã khá lạc hậu so với thực tế. Trong khi đó, những quy phạm pháp luật để quản lý các loại hình hoạt động văn nghệ (như xung quanh việc bảo vệ tác quyền) và bộ máy thực thi chúng đều còn quá nhiều khiếm khuyết, lạc hậu. Chúng ta duy trì quá lâu các hệ thống hội đoàn văn nghệ có từ thời bao cấp, vốn nặng tính hành chính, không khuyến khích sự sáng tạo và người sáng tạo. Cho đến nay, những ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống hội đoàn bao cấp - mang nặng tính chất nhà nước hóa và tính độc quyền - thậm chí vẫn còn chưa được nhận rõ để vượt qua. Sau những năm dài bao cấp, một thị trường nghệ thuật chỉ mới vừa hình thành ở một vài ngành, trong từng công đoạn, lại bị méo mó do những ảnh hưởng kiểu nhóm lợi ích, đan chéo với những hệ lụy bao cấp chưa được khắc phục. Theo tôi, đó là những rào cản cho sự phát triển nghệ thuật, cho sáng tạo văn nghệ hiện nay.
* Phải chăng chúng ta thiếu vắng tài năng, hay chúng ta thiếu cơ chế đầu tư phát triển và giữ chân tài năng?
- Tôi không nghĩ là chúng ta thiếu tài năng. Tôi nghiệm ra rằng, các thế hệ người Việt, thế hệ nào cũng sẽ làm nên thành tựu của mình. Tất nhiên mức độ đóng góp của mỗi thế hệ vào sự phát triển từng lĩnh vực văn hóa xã hội của đất nước là khác nhau. Thế hệ ra đời cách nay chừng 100 năm, do tiếp nhận một thay đổi căn bản về hệ hình văn hóa, đã làm nên một thời đại mới trong văn học Việt Nam, với thơ mới, kịch nói, văn tiểu thuyết và văn bình luận, đưa văn nghệ Việt Nam vào thời hiện đại.
Cũng có thế hệ chịu thiệt thòi, như thế hệ tôi, ra đời cách đây hơn 60 năm, chịu những hạn chế lớn trong việc tiếp cận các nguồn tri thức xã hội nhân văn, nên sự đóng góp rõ ràng bị hạn chế, tuy cũng có những đại diện của mình trong sáng tạo văn nghệ. Các thế hệ ra đời trong vòng vài ba chục năm nay đã có điều kiện mở rộng tầm hiểu biết, sự xúc tiếp rộng hơn hẳn. Tôi không tin sức sáng tạo của họ không dồi dào.
Còn về sự đầu tư, tôi nghĩ cũng có vấn đề, liên quan đến hệ thống hội đoàn văn nghệ mang nặng tính chất Nhà nước hóa và tính độc quyền kể trên. Trong khi đó, sự đầu tư lớn nhất, đáng mong muốn nhất, theo tôi là việc tạo ra môi trường xã hội cho tự do sáng tác.
* Xin cảm ơn ông!
NGUYỄN THANH BÌNH thực hiện