Văn hóa - Giải trí

8 năm vẫn nhớ thầy Xuân

08:29, 29/06/2015 (GMT+7)

Nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân đi xa đã tròn 8 năm. Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, Tạp chí Xưa và Nay phối hợp xuất bản cuốn sách Nguyễn Văn Xuân, một người Quảng Nam tập hợp những bài viết của ông đăng trên tạp chí Xưa và Nay... Năm 2013, một con đường ở quận Cẩm Lệ (Đà Nẵng) đã được mang tên ông.

Chân dung nhà văn - nhà văn hóa Nguyễn Văn Xuân
Chân dung nhà văn - nhà văn hóa Nguyễn Văn Xuân

8 năm vắng ông, nhưng những lúc những người cầm bút chúng tôi gặp nhau vẫn nhắc đến ông và cảm giác hình ảnh, giọng nói của ông vẫn ở đâu đây…

Bài viết này như nén hương nhân ngày giỗ năm nay của thầy Xuân (4-7-2015)…

1. Nổi tiếng trong làng văn từ năm 1937, khi vừa 17 tuổi, nhưng tác phẩm của nhà văn - nhà văn hóa Nguyễn Văn Xuân ít được đưa trên mạng Internet. Cho đến khi ông nằm xuống, ít người biết đầy đủ về ông.

Thế nhưng chỉ 2 tháng sau ngày ông mất, Tự điển Wikipedia đã lập ngay một “trang định hướng” về Nguyễn Văn Xuân (27-8-2007). Có thể tóm lược trang này như sau: “Nguyễn Văn Xuân (1921-2007) là một học giả, nhà văn và thầy giáo Việt Nam. Ông sinh năm 1921 tại làng Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông qua đời lúc 21 giờ 30 ngày 4-7-2007 tại Đà Nẵng.

Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm như: Bão rừng, Dịch cát, Kỳ nữ họ Tống, v.v... Ngoài sáng tác, ông còn có những tác phẩm nghiên cứu lịch sử, văn học như Khi những lưu dân trở lại, Phong trào Duy Tân, Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc, Ngô Đình Diệm - ông là ai (bản thảo đã thất lạc), v.v…

Bên cạnh nghề văn, ông còn là một nhà giáo nhiều năm dạy học tại nhiều trường trung học như: Phan Thanh Giản, Bán công, Nữ trung học Đà Nẵng, Đại học Văn khoa Huế và Đại học cộng đồng Đà Nẵng. Ông còn hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật tuồng, bảo vệ văn hóa dân tộc ở miền Nam trước năm 1975.

Lối hành văn và cung cách hành xử với đời của ông phản ánh những tấm gương của các nhà cách mạng xứ Quảng như: Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Duy Hiệu, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Khôi, Nguyễn Tường Tam, v.v... Trong giai đoạn từ 1941-1945, Nguyễn Văn Xuân cộng tác với tạp chí Tiểu thuyết thứ Bảy ở Hà Nội. Sáng tác chính của ông vẫn là những truyện ngắn, trình bày những sinh hoạt đời thường, cùng giới thiệu, đề cao tâm hồn chất phát, giản dị của lớp quần chúng lam lũ. Ông được giao nhiệm vụ ủy viên kịch nghệ thuộc Hội văn nghệ Quảng Nam, rồi ủy viên kịch nghệ của Liên khu V trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Ông cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Cách mạng cứu quốc xã Thanh Chiêm...

Lúc mất, Nguyễn Văn Xuân đã được hầu hết các báo trong cũng như ngoài Việt Nam viết về ông… với tất cả sự quý trọng và tưởng tiếc…

2. Ngay sau khi Nguyễn Văn Xuân mất, nhà nghiên cứu văn học Đặng Tiến sinh sống ở Pháp, lúc đó đang có công việc ở Liege (Bỉ) đã viết: “1956 dưới bút hiệu Việt Hiến, cùng với Thu Tâm (Võ Thu Tịnh) và Trần Lê Nguyễn, anh (Nguyễn Văn Xuân) chủ trương biên tập tạp chí Văn Nghệ Mới tại Huế, ra được hai số thì bị chính quyền Ngô Đình Diệm đóng cửa vì tình nghi thân cộng; trên tạp chí này, dưới bút hiệu Xu Văn Ân, anh có truyện Buổi tắm tất niên kể chuyện một người nghiện thuốc phiện rất sợ tắm; ngày áp Tết, gia đình bắt tắm. Chuyện chỉ có vậy, nhưng có người cho rằng tác giả mỉa mai Ngô Đình Nhu. Có lúc anh bị bắt nhốt tại nhà lao Thừa Phủ Huế...”; “Những năm sau 1975, anh sinh sống tại Đà Nẵng, kinh tế khó khăn, người vợ bệnh tật. Anh không viết lách gì được nhiều.

Bạn bè ngoài nước đề nghị hằng tháng trợ cấp cho anh viết hồi ký. Viết xong anh tùy nghi sử dụng bản thảo và thu lợi tức. Nhưng việc không thành vì anh không nhận. Cũng tại Huế, Nguyễn Văn Xuân còn phát hiện 80 hồi trong pho tuồng hát bội Vạn bửu tình trường của thời Tự Đức trên tổng số 120 hồi. Rất thông thái về tuồng, anh viết liên tiếp nhiều bài về hát bội trên Tạp chí Tân Văn, Sài Gòn; hay nhất là bài Trại Ba Công chúa - tức tuồng Địch Thanh.

Nhà văn Thái Bá Lợi có nhiều kỷ niệm với ông suốt 30 năm, từ khi hết chiến tranh cho đến lúc ngồi bên thi hài ông trong căn nhà cũ. Và Thái Bá Lợi suy ngẫm về nhà văn già bằng những dòng thắm thiết:
“...Trong đời ít có ai mà không gặp một sự cố nào dù lớn dù nhỏ, nhưng hoàn cảnh của ông thật là hy hữu. Đến năm 80 tuổi, ông vẫn là lao động chính trong một gia đình có nhiều người khác thường. Trong căn nhà mà tôi được biết từ ngày 1-4-1975 đến nay chẳng có gì thay đổi mà ngày càng xuống cấp thêm bởi người lao động chính đang bận kiếm sống để cái gia đình đặc biệt đó tồn tại. Nhiều lúc tôi tự hỏi không biết ông lấy đâu ra ý chí, sức lực để chống chọi với hoàn cảnh. Cuộc chiến này của ông thật là oanh liệt, người bình thường như chúng tôi thật khó hình dung ra nổi, dù nó đã diễn ra hằng ngày trước mắt mình...”.

Trong bài Khoảng trống mà ông Xuân để lại, sau khi dẫn ra khả năng tư duy độc lập trong sự nghiệp nghiên cứu của cố nhà văn, chúng tôi đã viết: “Nguyễn Văn Xuân đã nhìn lịch sử và sự việc không đóng khung trong những tư liệu hoặc những gì nó biểu hiện nhất thời, mà luôn đặt lịch sử, sự việc trong thế động, với những phát hiện đầy bất ngờ thú vị. Vì vậy, đôi khi văn ông sử dụng nhiều từ đã cũ nhưng vấn đề ông nêu lên lại luôn mới và gây sự chú ý.

Những năm cuối đời, ông thường nói với tôi về hai sự kiện: Vai trò của Dinh trấn Thanh Chiêm và cuộc chiến tranh chống ngoại xâm 1858-1860 của dân Quảng. “Đó là hai dấu son chọi lọi trong lịch sử của xứ mình, cần được vinh danh và truyền đời cho con cháu...”.

Ngày nay, các nhà nghiên cứu mà ta thường đọc ít có những tư duy độc lập như thế. Phần đông họ làm công tác biên khảo chứ chưa đạt đến cấp độ của nghiên cứu để phát hiện vấn đề mới như ông. Chính đó là một khoảng trống khi cụ Xuân ra đi vậy!”.

3. Nhà sử học Dương Trung Quốc trước sau vẫn gọi nhà văn - nhà văn hóa Nguyễn Văn Xuân là “Thầy Xuân”, dù chưa học với ông ngày nào ở trường. Nhưng ông Quốc bảo: “Nếu không có Thầy, tôi khó có cơ hội gắn bó với những đề tài lịch sử ở Quảng Nam và Đà Nẵng” và “Thầy Xuân ưa chơi với người trẻ hơn người già. Khác với nét mặt khắc khổ đượm vẻ kiêu hãnh cộng với vốn sống và vốn kiến thức, thầy lại là người rất cởi mở và thích sống hết mình những khi có dịp. Chỉ “chọc” khẽ, thầy có thể cho tuôn trào biết bao điều chứa chất bên trong thành những bài thuyết giảng hấp dẫn, thành những câu thơ tình đọc rất say sưa, hay những lời bình sâu sắc thường pha chất trào lộng... Tất cả bằng một giọng xứ Quảng rất nặng.

Tôi không bao giờ quên Hội thảo kỷ niệm hai nhân vật xứ Quảng: các cụ Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng (1992) diễn ra tại Đà Nẵng, Nguyễn Văn Xuân ngồi ở dưới phát biểu ý kiến; Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Đoàn chủ tịch vác ghế xuống ngồi sát cạnh ông để nghe cho rõ những điều ông nói. Giọng thầy rất khó nghe nhưng khi đã lọt vào tai rồi là đi tới óc”.

Ông Dương Trung Quốc kết luận: “Là người từng gắn bó tham gia nhiều công việc với các đồng nghiệp xứ Quảng của Thầy, tôi cũng cảm nhận được một điều: một cuộc hội thảo, một tập kỷ yếu viết về lịch sử và văn hóa xứ Quảng mà vắng tên của Thầy thì mọi người đều cảm thấy một cái gì không trọn vẹn, một khoảng trống... Nguyễn Văn Xuân là người học rộng lại chuyên viết về xứ Quảng nên gọi Thầy là nhà Quảng học hiểu theo nghĩa nào cũng đều đúng cả, một tính cách và một kho tri thức”.

Trong cuốn sách Nguyễn Văn Xuân, một người Quảng Nam, nhà văn Nguyên Ngọc nhận định: “Nguyễn Văn Xuân có một cuộc đời sáng tạo đặc biệt. Những người đọc kỹ Nguyễn Văn Xuân thường có băn khoăn: Vậy ông là ai? Nhà văn, học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà báo, nhà “Quảng Nam học”? Riêng tôi muốn nói điều này: Ông là tất cả những “nhà” vừa nói trên... Đọc các tiểu thuyết, truyện ngắn của ông thấy rõ sự uyên thâm của một học giả toàn diện, cực kỳ giàu vốn sống, vừa xông xáo, mạnh mẽ trong suy tưởng, vừa tinh vi, tinh tế, đầy mẫn cảm. Đọc các công trình nghiên cứu của ông lại hấp dẫn như những tiểu thuyết và rất nhiều khi cả lãng mạn nữa...”.

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

.