.

Không chấp nhận khiếu nại của ông Phạm Văn Hiếu

Ngày 15-1-2013, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Võ Duy Khương ký Quyết định số 501/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Phạm Văn Hiếu, trú tại tổ 53, Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Nội dung quyết định như sau:

Xét đơn khiếu nại của ông Phạm Văn Hiếu, trú tại tổ 53, Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng;

Xét Báo cáo số 678/BC-TTTP ngày 6-12-2012 và Tờ trình số 05/TTr-TTTP ngày 2-1-2013 của Thanh tra thành phố về kết quả thẩm tra, xác minh nội dung đơn khiếu nại của ông Phạm Văn Hiếu, cụ thể như sau:
Thực hiện dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, ngày 25-1-2008 Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố đã lập Hồ sơ kỹ thuật thửa đất của hộ ông để làm cơ sở thu hồi. Theo đó, xác định tổng diện tích thửa đất là 678,4m2, diện tích thu hồi là 489,4m2, ông là chủ sử dụng đã ký xác nhận ngày 26-1-2008.

Ngày 15-9-2008, UBND quận Liên Chiểu ban hành Quyết định số 1742/QĐ-UBND về việc thu hồi diện tích đất 589,4m2 do ông đang sử dụng tại thửa đất số 17, tờ bản đồ số 138, giao cho Công ty cổ phần Đầu tư Đà Nẵng miền Trung để đầu tư xây dựng dự án trên.

Ngày 14-1-2009, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng lập hồ sơ kiểm định nhà, đất, vật kiến trúc và cây cối hoa màu của hộ ông.

Ngày 3-6-2009, Chủ tịch UBND quận Liên Chiểu ban hành Quyết định số 379/QĐ-UBND về việc phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất đối với 200 hộ thuộc diện giải tỏa dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, phường Hòa Minh. Trong đó, hộ ông được phê duyệt như sau:

Nguồn gốc sử dụng đất là của bà Mai Thị Đông và ông Nguyễn Lãng (chết) được UBND quận Liên Chiểu cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AE 526926 (số vào sổ H03404), ngày 15-8-2006 thuộc tờ bản đồ số 133, thửa 16, diện tích 761,7m2 loại đất trồng lúa, thời hạn sử dụng đến ngày 6-12-2016. Năm 2006, bà Đồng đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất trên cho ông, có xác nhận của Phòng Công chứng số 2 ngày 25-10-2006 và đăng ký trước bạ sang tên ngày 18-5-2007. Hiện trạng có nhà ở.

Trên cơ sở đó phê duyệt: Bồi thường 100% giá đất trồng cây hằng năm hạng 1 đồng bằng, đơn giá 35.000 đồng/m2 cho diện tích 489,4m2; hỗ trợ 80% nhà, vật kiến trúc theo Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND ngày 20-12-2007 của UBND thành phố.

Ngày 20-6-2009, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng lập bảng tính giá trị đền bù của hộ ông, với tổng giá trị đền bù thiệt hại là 90.521.880 đồng và ngày 18-1-2010, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng lập bảng tính giá trị đền bù bổ sung, số tiền 7.995.280 đồng.

Ngày 10-10-2011, UBND thành phố ban hành Quyết định số 8725/QĐ-UBND “Về việc phê duyệt giải quyết hỗ trợ, đền bù, tái định cư đối với các hộ giải tỏa Dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, quận Liên Chiểu”. Hộ ông được giải quyết hỗ trợ thêm 20% cho đủ 100% nhà và vật kiến trúc, không bố trí đất tái định cư.
Ngày 15-10-2011, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 1 Đà Nẵng lập bảng tính giá trị đền bù bổ sung, số tiền là 19.319.990 đồng.

Ngày 2-10-2011, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 8018/QĐ-UBND “Về việc Phê duyệt giải quyết hỗ trợ, đển bù, tái định cư đối với các hộ giải tỏa Dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu”. Trong đó hộ ông được phê duyệt giải quyết như sau: “Giải tỏa đất nông nghiệp, giải tỏa một phần, giải tỏa nhà xưởng, nhà ở phía sau, không bố trí đất tái định cư”.

Không đồng ý với kết quả giải quyết trên, ông có đơn khiếu nại, tại buổi làm việc với Thanh tra thành phố ngày 4-12-2012, ông trình bày: UBND thành phố thu hồi đất của hộ ông để thực hiện dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, ông không khiếu nại về đền bù thiệt hại do thu hồi đất nhưng ông khiếu nại UBND thành phố trong việc không bố trí đất tái định cư đối với hộ ông nêu tại Quyết định số 8018/QĐ-UBND ngày 2-10-2012 của Chủ tịch UBND thành phố và ông yêu cầu giải quyết bố trí một lô đất tái định cư để làm nhà ở.

Từ những cơ sở thẩm tra, xác minh trên, nhận thấy:

Nguồn gốc đất của ông đang sử dụng là do nhận chuyển nhượng đất trồng lúa, có thời hạn sử dụng đến năm 2016 của hộ bà Mai Thị Đồng theo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được Phòng Công chứng số 2 ký xác nhận ngày 25-10-2006, đã đăng ký trước bạ sang tên ngày 18-5-2007. Hiện trạng có nhà ở, diện tích đất thu hồi 489,4m2, diện tích đất còn lại 189m2. Trên cơ sở quy định của pháp luật, UBND thành phố đã phê duyệt giải quyết bồi thường 100% giá đất trồng cây hằng năm hạng 1 đồng bằng (đơn giá 35.000 đồng/m2) cho diện tích 489,4m2 và hỗ trợ 100% nhà, vật kiến trúc theo Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND ngày 20-12-2007 của UBND thành phố đối với hộ ông là đúng quy định của Nhà nước và phù hợp với thực tế.

Việc UBND thành phố không giải quyết bố trí đất tái định cư đối với hộ ông là vì hộ ông bị thu hồi một phần đất trồng lúa, theo Phương án bố trí đất tái định cư của dự án này được ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-UBND ngày 12-1-2010 của Chủ tịch UBND thành phố và Công văn số 5805/UBND-QLĐBGT ngày 2-8-2012 của UBND thành phố “Về việc chỉ đạo một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý đất đai” thì trường hợp của hộ ông không thuộc đối tượng được giải quyết bố trí đất tái định cư. Do vậy, việc ông khiếu nại UBND thành phố trong việc không giải quyết bố trí đất tái định cư đối với hộ ông được phê duyệt tại Quyết định số 8018/QĐ-UBND ngày 2-10-2012 “Về việc phê duyệt giải quyết hỗ trợ đền bù, tái định cư đối với các hộ giải tỏa dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu” là không đúng. Việc ông yêu cầu giải quyết bố trí một lô đất tái định cư để làm nhà ở là không có cơ sở để xem xét giải quyết.

Từ kết quả thẩm tra, xác minh trên và theo đề nghị của Chánh Thanh tra thành phố;

Quyết định:

Điều 1- Không chấp nhận đơn của ông Phạm Văn Hiếu, trú tại tổ 53, Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng khiếu nại Quyết định số 8018/QĐ-UBND ngày 2-10-2012 của UBND thành phố “Về việc phê duyệt giải quyết hỗ trợ, đền bù, tái định cư đối với các hộ giải tỏa dự án Cụm công nghiệp Phước Lý, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu” (phần giải quyết không bố trí tái định cư đối với hộ ông).

Điều 2- Nếu không đồng ý với Quyết định này thì ông được quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố theo quy định của pháp luật.

Điều 3- Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 4- Chánh Văn phòng UBND thành phố, Chánh Thanh tra thành phố, Chủ tịch UBND quận Liên Chiểu, Trưởng ban Ban giải tỏa đền bù các dự án đầu tư xây dựng số 1 Đà Nẵng, Chủ tịch UBND phường Hòa Minh, ông Phạm Văn Hiếu, các cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

KT. Chủ tịch
Phó Chủ tịch
VÕ DUY KHƯƠNG

;
.
.
.
.
.