.
Qua đơn - thư bạn đọc

Bản án chưa thuyết phục

.

Báo Đà Nẵng nhận được đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nghĩa (trú tổ 81 phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn) nêu vụ việc: Hiện gia đình ông không đồng ý với bản án dân sự số 21/2010/DS-TS do TAND quận Ngũ Hành Sơn xét xử (ông là nguyên đơn) vào ngày 27-8-2010, nên gia đình ông không chấp hành việc thi hành án của Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn. Vụ việc kéo dài qua nhiều năm, đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Một phần nền móng nhà máy xát gạo nằm trên đất nhà ông Nguyễn Văn Nghĩa.
Một phần nền móng nhà máy xát gạo nằm trên đất nhà ông Nguyễn Văn Nghĩa.

Theo đơn khiếu nại, nguyên lô đất hiện gia đình ông Nguyễn Văn Nghĩa đang ở tổ 81 (trước đây là tổ 31 Khái Tây), phường Hòa Quý do cha ông là Nguyễn Hân (đã qua đời) trực tiếp quản canh. Năm 1990, ông Huỳnh Bá Đông xin chính quyền địa phương cho xây dựng nhà máy xay xát gạo trên một phần lô đất đó với diện tích 500m2.

Năm 1992, ông Nghĩa làm nhà trên lô đất (hiện đang ở), sát nhà máy xát gạo; năm 1994 được Nhà nước giao đất và gia đình ký nhận lô đất nói trên. Năm 1995, chính quyền huyện Hòa Vang (cũ) cấp cho gia đình ông Nghĩa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) số 672078 với diện tích 331m2. Phần nhà máy xát gạo của ông Đông xây sau đó được chuyển giao cho ông Nguyễn Thông (em rể ông Đông) quản lý, sử dụng.

Sau một thời gian, nhà máy xát gạo ngừng hoạt động. Đến tháng 10-2009, ông Thông xây dựng nhà trên nền móng của nhà máy xát gạo cũ.

Vụ việc này bị gia đình ông Nghĩa ngăn cản với lý do ông Thông lấn chiếm một phần đất của gia đình ông. Ông Nghĩa gửi đơn khiếu nại lên các cơ quan chức năng, sau đó đưa ra TAND quận Ngũ Hành Sơn xét xử.

. Phần đất thửa 405 ở ngã 3 đường Khái Tây 2 và đường Lưu Quang Vũ (nhà ông Nghĩa chỉ tiếp giáp đường Khái Tây 2).
Phần đất thửa 405 ở ngã 3 đường Khái Tây 2 và đường Lưu Quang Vũ (nhà ông Nghĩa chỉ tiếp giáp đường Khái Tây 2).

Trao đổi với phóng viên, ông Nghĩa khẳng định: Đối với diện tích đất thửa số 405 do phường quản lý, ông không có ý kiến gì. Tuy nhiên, đất của gia đình ông có sổ đỏ với diện tích 331m2 phải được bảo đảm.

Việc TAND quận Ngũ Hành Sơn cho rằng gia đình ông bị mất đất do làm đường (30,6m2) và ông Thông lấn chiếm 14,7m2 là không đủ căn cứ, chưa thuyết phục.

Bản án dân sự số 21/2010/DS-TS ghi nhận tính pháp lý diện tích 331m2 đất của gia đình ông Nghĩa, nhưng không thể hiện rõ về ranh giới, mốc giới thửa đất theo sổ đỏ số 672078. Bản án cho rằng, quá trình Nhà nước mở rộng đường trong khu dân cư từ những năm 2000, nên diện tích đất gia đình ông Nghĩa bị ảnh hưởng, mất 30,6m2 (đối với ông Thông, thửa số 405 bị mất 2,1m2).

Bên cạnh đó, căn cứ bản đồ do Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố lập xuất cho các hộ ông Nghĩa và ông Thông cho thấy ông Thông đã lấn chiếm 14,7m2 sang đất ông Nghĩa. Từ căn cứ trên, TAND quận Ngũ Hành Sơn đã buộc ông Thông trả lại phần đất đã chiếm cho ông Nghĩa.

Ông Nghĩa không đồng ý với bản án sơ thẩm, tiếp tục khiếu kiện lên cấp phúc thẩm. TAND thành phố Đà Nẵng xét lại vụ án và giữ nguyên phán quyết của tòa sơ thẩm. Ngày 18-1-2014, TAND tối cao có ý kiến, đồng ý với bản án do các cấp tòa đã xét xử trước đó.

Mặc dù các cấp tòa đều xử y án theo tòa sơ thẩm, nhưng khi án có hiệu lực, cơ quan Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn không thể thi hành vì bản án thiếu cơ sở xác thực, với lý do không xác định được ranh giới, mốc giới cụ thể để trả lại phần đất ông Thông lấn sang đất ông Nghĩa.

Mặt khác, gia đình ông Nghĩa không thống nhất với bản án nên đã cản trở quá trình thi hành án. Trong văn bản Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn gửi TAND thành phố Đà Nẵng ngày 3-9-2013 yêu cầu giải thích bản án số 21/2010/DS-TS, nêu rõ: “Phần sơ đồ thửa đất do tòa án thể hiện trong bản án không phù hợp với thực tế và không xác định rõ ràng ranh giới, mốc giới giữa các bên tranh chấp cũng như các hộ liền kề... TAND quận Ngũ Hành Sơn khi giải quyết tranh chấp đã không tiến hành đo vẽ, xác lập cụ thể phần diện tích đất của các bên ngay tại thời điểm tranh chấp năm 2010 mà dựa trên cơ sở hồ sơ kỹ thuật do Trung tâm đo đạc bản đồ lập năm 2005 để xác định phần đất lấn chiếm là chưa chính xác.

Các cơ quan chức năng và UBND phường Hòa Quý nơi có đất tranh chấp qua nhiều cuộc họp cho rằng, không có cơ sở xác định mốc giới trên thực tế...”. Vì vậy, việc thi hành án đến nay vẫn chưa thực hiện.

Bản phúc đáp của TAND thành phố Đà Nẵng cho rằng, ngày 1-7-2010, Tòa án quận Ngũ Hành Sơn cùng ban, ngành liên quan tổ chức đo đạc xác định ranh giới, mốc giới đối với thửa đất 404 và 405 để phục vụ cho việc xét xử.

Nhưng do nguyên đơn là gia đình ông Nghĩa không hợp tác nên việc đo đạc bất thành, qua đó TAND quận Ngũ Hành Sơn đã căn cứ bản đồ 64/CP và bản đồ công trình dự án tái định cư làng Đại học Đà Nẵng để giải quyết.

TAND thành phố Đà Nẵng bác những nội dung thắc mắc của Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn vì cho rằng thiếu cơ sở (?!). Điều này gây thắc mắc, vì sao nguyên đơn không đồng ý hợp tác để đo đạc, phục vụ xét xử vụ án nhưng Tòa án Ngũ Hành Sơn vẫn xét xử khi chưa thu thập đủ chứng cứ thuyết phục?

Phóng viên Báo Đà Nẵng đã có mặt tại nhà ông Nghĩa và thửa đất 405 (ông Thông). Đối với 30,6m2 đất của ông Nghĩa, các cấp tòa án cho rằng, do làm đường nên bị mất đất là chưa đủ cơ sở. Ông Nguyễn Văn Tường, cán bộ địa chính phường Hòa Quý, công tác từ trước năm 1995 khẳng định việc mở rộng đường có trước năm 1995 không tác động đến việc mất đất của ông Nghĩa và ông Thông.

Ông Lê Văn Thức, Bí thư Chi bộ 2A Khái Tây, nguyên Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp 1 Hòa Quý - người trực tiếp cùng ông Huỳnh Đức Đình, nguyên Chủ nhiệm HTX này, sau đó làm Chủ tịch UBND xã Hòa Quý (cũ) - “chủ xị” trong việc mở rộng các tuyến đường trong khu dân cư ở phường Hòa Quý, cho biết việc mở rộng đường, trong đó tuyến đường Khái Tây 2 và đường Lưu Quang Vũ được thực hiện từ tháng 5-1987.

Những năm sau đó, việc nâng cấp đường đều được làm trên nền đường cũ, không hề mở rộng thêm và không lấn vào đất của ông Nghĩa như TAND quận Ngũ Hành Sơn xét xử.

Dù bản án đã được cấp Tòa tối cao y án từ các cấp tòa dưới, nhưng thực tế, bản án vẫn gây ức chế, khiếu nại kéo dài của nguyên đơn, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thi hành án trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Bài và ảnh: TRỌNG HUY

;
.
.
.
.
.