Sau những gì xảy ra, L.T.M (SN 1986, trú phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu) chỉ còn sự hối tiếc đến vô vọng. Nghĩ về 3 đứa con thơ, hai chữ “chung thân” như sét đánh ngang tai, khuôn mặt M. dần biến sắc sau lớp khẩu trang...
Là con đầu, gia đình không khó khăn, được học hành đàng hoàng, lại có chút nhan sắc nên con đường sự nghiệp của M. khá thuận lợi. Mãi kiếm tiền cho đến khi ngoảnh lại thấy bạn đồng trang lứa đều yên bề gia thất nên M. cũng nhắm mắt chọn lấy một người kết hôn. Cuộc hôn nhân nhanh chóng kết thúc như cách bắt đầu, M. trở thành mẹ đơn thân chăm sóc 2 con nhỏ lại thêm đang mang bầu bé thứ 3.
Nhờ sự nhanh nhẹn, tháo vát, có kiến thức kinh doanh, M. nhanh chóng ổn định cuộc sống, đủ để nuôi các con khôn lớn. Tuy nhiên, mỗi lúc M. càng tham lam hơn. Đầu năm 2019, công ty do vợ chồng bà T.T.N.L và ông V.C.Q (cùng trú phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu) điều hành có nhu cầu tham gia đầu tư vào các dự án nhà máy xử lý rác thải trên địa bàn Đà Nẵng và Quảng Nam.
Thông qua giới thiệu của người quen, vợ chồng bà L. đến gặp M. để hỏi về việc xin giấy phép đầu tư. Quá trình làm việc, M. dùng tên giả là T.T.T, tự “biến hóa” mình trở thành những người có tiếng trong giới làm ăn, có mối quan hệ, quen biết rộng... hứa hẹn xin được giấy phép đầu tư các dự án cho công ty của bà L. trong thời gian 1 đến 3 tháng.
Cụ thể, M. hứa xin được giấy phép cho công ty vào dự án nhà máy xử lý rác thải Đà Nẵng và yêu cầu bà L. đưa trước 150.000 USD. Để bà L. hoàn toàn tin tưởng, M. nhờ người hỏi thủ tục cấp giấy và liên hệ UBND thành phố tổ chức buổi thuyết trình để nghe đại diện công ty bà L. giới thiệu về công nghệ. Tuy nhiên sau buổi thuyết trình, M. không làm các thủ tục cần thiết theo hướng dẫn của cơ quan chức năng để được cấp phép đầu tư mà vẫn liên tục đưa ra các thông tin gian dối để bà L. tin tưởng, tiếp tục giao tiền.
Với thủ đoạn như trên, từ tháng 2-2019 đến tháng 9-2019, M. nhận xin giấy phép để được tham gia đầu tư vào hai dự án nữa cho bà L. với tổng số tiền 860.000 USD, tương đương hơn 19 tỷ 806 nghìn đồng. Qua xác minh, Sở Tài nguyên và Môi Trường có công văn nêu rõ 21 nhà đầu tư nộp hồ sơ đề xuất, trong đó không có hồ sơ của công ty bà L. Khi bị bà L. phát hiện M. lừa dối, qua nhiều lần hai bên làm việc, bị cáo trả lại cho bà L. số tiền khoảng 1,6 tỷ đồng. Bà L. yêu cầu M. tiếp tục trả hết số tiền còn lại.
Đối diện với những câu hỏi của Hội đồng xét xử (HĐXX), bị cáo M. thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đại diện Viện Kiểm sát truy tố. Tuy nhiên, bị cáo khai nhận mình không phải là người chủ động đề xuất bà L. đưa tiền, giữa hai người không có sự bàn bạc nào trước mà chính bà L. là người đưa ra đề nghị, nhờ bị cáo “tìm đường” để tham gia vào các dự án. Bị cáo cho rằng, tất cả số tiền bà L. đưa, chi vào việc gì đều được sự đồng ý của bà L.
Để làm rõ về số tiền mà bị cáo cho rằng “thực chi cho công việc”, HĐXX đề nghị chứng minh, tuy nhiên bị cáo không chứng minh được. Khi HĐXX chất vấn: “Khát vọng thành công, làm giàu là điều chính đáng nhưng lựa chọn cách thức lừa đảo để kiếm tiền như bị cáo là sai trái.
Bị cáo có 3 con nhỏ, cha mẹ già, trước hành vi của mình, mức án mà bị cáo phải chịu không phải nhẹ, bị cáo đã từng nghĩ đến người thân trước khi thực hiện hành vi phạm tội? Bây giờ bị cáo đã thực sự ân hận?”, M. dừng lại trong giây lát rồi trả lời “Thưa, rồi ạ”. Theo từ này thốt ra, nước mắt cứ thế cũng lăn dài trên gương mặt tái nhợt, hốc hác của M.
HĐXX Tòa án nhân dân thành phố tuyên phạt L.T.M mức án chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
MỘC LAN