.

Cội hoa cuối mùa

Nhà văn, học giả Nguyễn Văn Xuân qua đời tại quê nhà Đà Nẵng ngày 4 tháng 7-2007, thọ 86 tuổi. Anh sinh năm 1921 trong một gia đình khá giả tại làng Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Anh bắt đầu viết văn rất sớm, 17 tuổi đã có truyện đăng trên báo Bạn Dân.
 
Truyện ngắn đầu tay Bóng Tối và Ánh Sáng được giải thưởng của tạp chí Thế Giới, Hà Nội, 1939. Từ 1941 đến 1945 Nguyễn Văn Xuân viết truyện ngắn cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Sau đó anh hợp tác với báo Văn Lang của bác sĩ Hồ Tá Khanh, cùng với nhiều học giả nổi tiếng như Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn.

Thời chiến tranh chống Pháp anh theo kháng chiến, họat động trong ngành sân khấu, viết kịch, diễn kịch, và nghiên cứu nghệ thuật hát bội.

Sau hiệp định Geneve 1954, anh về sống tại Đà Nẵng, dạy giờ tại các trường tư, viết truyện ngắn, truyện dài. Khoảng 1956 dưới bút hiệu Việt Hiến, cùng với Thu Tâm ( Võ Thu Tịnh ) và Trần Lê Nguyễn, anh chủ trương tạp chí Văn Nghệ Mới tại Huế, ra được hai số thì bị chính quyền Ngô Đình Diệm đóng cửa vì tình nghi thân cộng; trên tạp chí này, dưới bút hiệu Xu Văn Ân, anh có truyện Buổi Tắm Tất Niên, kể chuyện một người nghiện thuốc phiện rất sợ tắm; ngày áp Tết gia đình bắt tắm.

Chuyện chỉ có vậy, nhưng kết luận bằng câu “cách mạng làm sao cho có thứ ấy mới tài”, “thứ ấy” là thuốc phiện, có người cho rằng tác giả mỉa mai Ngô Đình Nhu. Nguyễn Văn Xuân là người cựu kháng chiến nên không dám ho he. Có lúc anh bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ Huế.

Năm 1957 anh cho xuất bản tiểu thuyết Bão Rừng, thai nghén trong nhiều năm, kể lại đời sống trong một đồn điền do người Pháp làm chủ mà anh đã biết khi 16 tuổi. Truyện do nhà Trùng Dương xuất bản và nhà văn Lưu Nghi đề tựa. Sau đó anh có mấy tập truyện ngắn: Hương Máu 1969, Dịch Cát, 1971.

Tác phẩm biên khảo Khi những lưu dân trở lại, 1967 nghiên cứu văn học Đàng Trong, chủ yếu qua kinh nghiệm bản thân tại Quảng Nam; sách là một tác phẩm hay. Nguyễn Văn Xuân là người giàu kinh nghiệm thực tế, nhiều kiến thức xã hội, có bộ óc tinh tế, khoa học, lý luận chính xác và ngay thẳng.

Những năm sau 1975 anh sinh sống tại Đà Nẵng, kinh tế khó khăn, vợ và con bệnh tật. Anh không in ấn gì được nhiều. Bạn bè ngoài nước đề nghị tháng tháng trợ cấp cho anh viết hồi ký. Viết xong anh tùy nghi sử dụng bản thảo và thu tác quyền. Nhưng việc không thành vì anh không nhận.

Trong thập niên 1960 có lúc anh được mời dạy giờ môn chữ Nôm tại Đại Học Huế và phát hiện trong một tủ sách tư nhân bản văn chữ Nôm của Phan Huy Ích dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn; bản dịch này trước kia được xem như của bà Đoàn Thị Điểm. Khoảng 1920 nhiều học giả đã cho rằng bản dịch là của Phan Huy Ích, nhưng chỉ có văn bản quốc ngữ. Phát hiện của Nguyễn Văn Xuân đã giúp thêm bằng chứng cho học giả Hoàng Xuân Hãn, người đã khẳng định, từ khoảng 1950, dịch phẩm Chinh Phụ Ngâm thông dụng hiên nay là của Phan Huy Ích.

Cũng tại Huế dường như Nguyễn Văn Xuân còn phát hiện khoảng 80 hồi trong pho tuồng hát bội Quần tiên khánh hội, của thời Tự Đức trên tổng số khoảng 120 hồi. Anh thường nhắc đến pho tuồng Vạn bửu trình tường, 72 hồi, mà anh còn giữ được hồi thứ 42. Rất thông thái về tuồng, anh viết liên tiếp nhiều bài về đè tài này trên tạp chí Tân Văn, Sài Gòn; hay nhất là bài Trại Ba cô gái Binh Định- tức là tuồng Tống Địch Thanh, (Tân Văn, tháng 9-1968).

Nguyễn Văn Xuân sành văn hóa dân gian, nhất là văn hóa địa phương. Thỉnh thoảng anh có bài điểm sách, phê bình sách, đưa ra nhiều nhận xét thực tiễn và chính đáng thay vì những lý thuyết dông dài như nhiều người khác thời đó.

Phong trào Duy Tân, 1970, là tác phẩm được tái bản nhiều lần nhất; phong trào này đã tạo được những vận động quần chúng mạnh mẽ năm 1907 tại tỉnh Quảng Nam, có sự đóng góp của những trí thức địa phương danh tiếng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và có người phải trả giá bằng sinh mệnh như Trần Quý Cáp. Đặc điểm của Nguyễn Văn Xuân là khai thác tư liệu địa phương, gồm có sách báo đã đành, còn có lời kể, trí nhớ của người địa phương. Nguyễn Văn Xuân lý luận cụ thể và duy lý nên có những đóng góp lớn lao và độc đáo.

Một thời gian dài anh ít viết. Nghe nói sau thời kỳ đổi mới 1986, anh mới trở lại đều đặn với sách báo, chuyên viết về văn hóa Quảng Nam, và trở thành một nhà "Quảng Nam học", một thứ chuyên gia địa phương bất đắc dĩ.

Trước tác mới nhất của Nguyễn Văn Xuân là tiểu thuyết lịch sử Kỳ Nữ Họ Tống.

Nguyễn Văn Xuân là một tài năng lớn, một học giả công tâm, uyên bác, ngay thẳng. Trong một thời gian dài, anh là lương tâm văn hóa của lứa tuổi chúng tôi trong một bối cảnh xã hội và lịch sử nhập nhằng.

Tuổi thọ cao, anh đã ra đi như bao nhiêu nhà văn hóa chân chính khác cùng thế hệ đã ra đi. Như đóa hoa cuối mùa, trên một cội hoa suốt đời bị nắng cớm.

Đặng Tiến

 

;
.
.
.
.
.