Sau hơn 40 năm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh “đi xa”, chúng ta vẫn như chợt nhận ra rằng còn có thật nhiều điều khó để hiểu đúng, hiểu đủ một cách rõ ràng về Người. Phải chăng vì là những người bình thường nên những người yêu sử sách hiện nay đều không thể nắm bắt nổi những tư tưởng sâu sắc của một thiên tài?
1- Tại sao ra đi tìm đường cứu nước bằng suy nghĩ “muốn đánh bại kẻ thù phải hiểu rõ kẻ thù” mà người thanh niên Nguyễn Ái Quốc lại không chọn nước Pháp là nơi chốn để định cư đầu tiên mà lại chọn Hoa Kỳ (1911-1913) và tiếp đó là Anh (1913-1917)?
Dù không muốn nhìn nhận đi nữa thì cũng không thể phủ nhận được rằng Mỹ là thuộc địa đầu tiên trong thời đại TBCN giành được độc lập – lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc. Xa và cao hơn nữa, Mỹ cũng là nước lần đầu tiên trong lịch sử loài người ghi rõ những điều thiêng liêng về quyền và giá trị của con người trong bản Tuyên ngôn Độc lập (TNĐL) 4-7-1776. Đáng kể hơn nữa là từ 13 thuộc địa đầu tiên của Anh, Hoa Kỳ đã nhanh chóng trở thành cường quốc số 1 của thế giới, tính vào thời điểm sau chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha, mốc đánh dấu cường quốc mới nổi, khai tử hệ thống cường quốc của thế giới đế quốc cũ.
Phải chăng cả 3 sự kiện đầu tiên của nước Mỹ đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với mảnh đất xa lạ này? Trong đó, tự do là điều mong mỏi thiết tha nhất: “…quyền tự do, mà thiếu nó thì con người là một tên nô lệ khốn khổ” (1). “Định mệnh” đã xô đẩy Nguyễn Ái Quốc đến ở nhiều nhất tại thành phố Boston – nơi mở đầu cách mạng Mỹ vào đêm 16, rạng ngày 17-12-1773.
2- Bài viết đầu tiên trong cuộc đời cầm bút không ngừng nghỉ của Người là Thư gửi Trưởng đoàn Hội nghị Versailles, tức TT Mỹ Woodrow Wilson vào đầu tháng 6-1919 - sau này mang tên gọi phổ biến là Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bài viết cuối cùng là Thư gửi TT Mỹ Richard M. Nixon (25-8-1969). Không thể nói về cái đầu tiên và cuối cùng đó bằng hai chữ ngẫu nhiên. Chẳng có ngẫu nhiên nào cả khi sắp xếp đủ chuỗi các sự kiện: Đến Mỹ và ở lại trước tiên – Bài viết đầu tiên – Mở đầu TNĐL 2-9-1945 bằng những dòng đầu tiên trong TNĐL Mỹ - Vị lãnh tụ tối cao đầu tiên đích thân đưa trung úy phi công Mỹ Shaw vượt núi rừng Việt Bắc để đến Côn Minh, trao trả cho người Mỹ và sau đó, gặp tướng Claire L. Chennault (2) – Hợp tác Việt-Mỹ đầu tiên trong những năm 1943-1945…
Đơn vị đặc nhiệm của OSS đã giúp Việt Minh đánh Nhật là điều không cần bàn cãi. Có nghĩa là nó khẳng định mặc nhiên rằng chính những quân nhân Mỹ là những người đầu tiên huấn luyện cho những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam thế hệ thứ nhất cách sử dụng điện đài, cách gài đặt chất nổ, chiến thuật… Cùng với sự huấn luyện đó là rất nhiều vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng (3).
Trong thư viết trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn liên minh với Mỹ một cách thiết tha. Người viết: “Tôi trông chờ ngày hạnh phúc được gặp ông (trung úy Fenn) và những người bạn Mỹ của chúng ta ở Đông Dương hay trên đất Mỹ” (4). Xin lưu ý rằng bức thư này được viết vào tháng 8 năm 1945! Xét về ngôn ngữ ngoại giao, bày tỏ niềm hạnh phúc khi được gặp những người bạn là cấp độ cao nhất của ngôn từ. Tiếp đó, trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ James F. Byrnes đề ngày 1-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ… và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam” (5).
Hồ Chủ tịch đã suy xét rất kỹ - bằng cách tiếp xúc, gặp gỡ với rất nhiều trí thức trước khi đưa ra quyết định táo bạo, cần thiết và nhanh chóng để mở đầu cho một quan hệ mới mẻ với Hoa Kỳ. Rất nhiều người có trách nhiệm (từ cả hai phía) đã không nhìn thấy điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ, hiểu rõ.
3- Mối quan hệ Việt – Mỹ có từ trong chiến tranh thế giới đã không được tiếp tục. Việt Nam và Hoa Kỳ đi theo hai con đường đối nghịch nhau. Thế nhưng, phải lưu ý rằng suốt một thời gian dài, Mỹ đã không giúp vũ khí, phương tiện chiến tranh cho đế quốc Pháp đánh Việt Nam. Đến tháng 1-1947, Hồ Chủ tịch vẫn muốn nối được quan hệ ngoại giao với Mỹ khi Người “hy vọng Mỹ gửi giúp chúng tôi vài chiếc” (máy bay) (6). Và, ít nhất, chúng ta biết rõ là cho đến tháng 5-1948, Hồ Chủ tịch vẫn cho rằng dân tộc Mỹ “tất nhiên phải đồng tình với nước Việt Nam tranh đấu giành độc lập” (7). Mãi cho đến tháng 3-1949, lần đầu tiên Hồ Chủ tịch mới phản đối việc Mỹ giúp cho đế quốc Pháp vũ khí để đánh Việt Nam: “… chúng tôi tiếc rằng Mỹ đã tiếp tế khí giới cho Pháp giết hại người chúng tôi, phá phách xứ sở chúng tôi” (8)
Có thể nói, bắt đầu từ đây, mối quan hệ Việt – Mỹ đã bị cắt đứt hoàn toàn suốt 66 năm (1949-1995). Cuộc chiến tranh Việt Nam do đế quốc Mỹ gây ra đã đem đến cho dân tộc Việt Nam rất nhiều đau thương, mất mát. Nỗi đau đó không dễ gì hóa giải trong ngày một ngày hai.
Những câu hỏi về những thăng trầm của lịch sử, nhất là các biến động – bi kịch – lẫn lầm của quan hệ Việt – Mỹ sẽ còn được tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn nữa. Một số dẫn liệu mà chúng tôi đưa ra trên đây trong cái khuôn khổ hạn hẹp nhất cũng minh định rằng mối quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quan hệ lâu dài Việt – Mỹ là điều luôn luôn được chú ý, mong muốn.
41 năm trước đây, chỉ một tuần trước lúc xa lìa cõi đời này, ngày 25-8-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cho TT Mỹ Richard M. Nixon những điều mà có lẽ con cháu hôm nay vẫn chưa kịp hiểu hết: “Với thiện chí của Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”. Ngay cả trong những ngày hận thù ghê gớm nhất, mâu thuẫn nặng nề nhất, Hồ Chủ tịch vẫn có thể dùng từ chúng ta một cách thật cao cả, phi thường để nói về một cuộc chiến tranh khủng khiếp bằng mấy chữ vấn đề Việt Nam!
HÀ VĂN THỊNH
Chú thích
(1) HCM, TT, T 1, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2002, tr. 5.
(2) Dixee R. Bartholomew – Feis, OSS và Hồ Chí Minh – Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, NXB Thế giới, H. 2007, tr. 243.
(3) OSS, sách đã dẫn.
(4) HCM, TT, T 3, NXB CTQG, H.2002, tr.550.
(5) HCM, TT, T 4, NXB CTQG, H. 2002, tr. 80..
(6) HCM, TT, T 5, NXB CTQG, H. 2002, tr. 21.
(7) T 5, tr. 430.
(8) T 5, tr. 573.
(9) HCM, TT, T 12, NXB CTQG, H. 2002, tr. 489.