.

Nhẹ gánh đường xa

.

Ngày mỗi ngày, cuộc sống cứ cuốn chúng ta đi trong bao tất bật đời thường. Ngoảnh mặt lại, thời gian trôi vụt. Những con người đã từng đổ máu xương cho mảnh đất này tươi thắm, những con người với bao phần việc âm thầm, lặng lẽ, chung tay làm đẹp quê hương rồi cũng hóa thành lặng lẽ. Mục Ký sự Nhân vật hình thành trên ĐNCT hy vọng sẽ ghi lại, nhắc lại, gợi nhớ lại những con người như thế, như một sự tri ân.

 

Mô tả ảnh.
Ảnh chụp tại núi Mặt Rạng-Hòn Tàu. Từ phải sang: Đồng chí Trần Hưng Thừa, Trưởng ban Tuyên huấn; Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy; Phạm Thanh Ba, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Đà năm 1973, và hai chuyên viên Văn phòng là Nguyễn Chu và Ngô Hạnh.

 

Trần Hưng Thừa, còn có tên Trần Bắc. Thời kháng chiến chống thực dân Pháp từng làm Trưởng ty Thông tin tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Từ năm 1955, khi cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng bí mật đóng trong nhà ông Chánh Quy ở thôn Thanh Tam-Cẩm Thanh-Hội An, thì Trần Bắc làm công tác Văn phòng Tỉnh ủy, cùng với Phan Đấu lo công tác in ấn tài liệu tuyên truyền.

Cuối năm 1955, do yêu cầu phải tổ chức những cuộc vận động lớn, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng chủ trương ra tờ báo “Quyết Tiến’’. Bộ phận biên tập gồm Phan Đấu và Trần Hưng Thừa. Trúng Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ 1970-1973, Trần Hưng Thừa được phân công làm Trưởng Ban Tuyên huấn Quảng Đà.

Trong thời gian làm việc ở cơ quan Ty Thông tin-Văn hóa Quảng Nam-Đà Nẵng, thời ông Trần Hữu Súy phụ trách, Trần Hưng Thừa làm Phó ty. Tại đây, ông đã làm quen rồi tìm hiểu chị Vũ Thị Hồng Hải là một nhân viên nhà in trực thuộc Ty Thông tin-Văn hóa. Được cơ quan đồng ý và đứng ra tổ chức đám cưới. Đám cưới thật đơn giản, cơ quan tổ chức gặp mặt anh em rồi tuyên bố lý do, giới thiệu hai người là vợ chồng, “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Hôm ấy có hai cặp được tuyên bố thành hôn là Thừa- Hải và Nhung - Ngưng… Đại diện tỉnh có ông Hồ Nghinh, người mai mối cho Thừa-Hải đến dự. Sau buổi lễ tuyên bố đôi bạn thành vợ thành chồng, họ dẫn nhau về nhà mẹ vợ chụp ảnh kỷ niệm và cùng gia đình ăn bữa cơm thân mật.

Cuối năm 1953, gần Tết Quý Tỵ, chị Vũ Thị Hồng Hải sinh con gái đầu lòng đặt tên là Trần Minh Thọ (sau này đổi tên là Trần Thị Bích Thọ). Trong một dịp công tác, thuận đường anh Thừa tranh thủ tạt về nhà thăm hai mẹ con. Anh bồng con gái đầu lòng hôn thật lâu, nhìn đôi mắt sáng giống mẹ của con một lúc rồi chia tay vợ.

 Anh đi rồi, mẹ con dẫn nhau về Cây Cốc-Tiên Thọ, nơi gia đình bà ngoại cháu Thọ tản cư lên ở sau ngày toàn quốc kháng chiến 1946. Những ngày tranh tối tranh sáng sau ngày đình chiến trên giấy, họ chứng kiến cảnh đấu tranh và đàn áp đẫm máu ở Cây Cốc, đồng bào thì tay không, ai hung lắm thì tay cầm cái cây, người cầm cây gậy, họ xông lên đấu tranh, kêu, chửi, chống lại bọn lính bận đồ sáu túi-lính của Liên hiệp Pháp, chúng bắn vào đám đông, làm cho hàng trăm người chết, máu me đầy đường trông thật khủng khiếp.
Không thể ở lại với Tiên Thọ-Cây Cốc, hai mẹ con tính chuyện tìm nơi ở mới.

Trước khi rời Cây Cốc, trong một đêm, anh Thừa lần về không dám vô nhà mà nhắn chị Hải ra gặp ở ngoài cái dốc. Anh cho biết không đi tập kết. Ở lại. Vào rừng. Anh dặn chị ráng chịu cực hai năm. Anh đi rồi em ở đâu? Chị hỏi chồng mà chị biết là anh không tài nào trả lời được.

 

Mô tả ảnh.
Tại Xuyên Mỹ, 9 giờ ngày 29-3-1975, đồng chí Hồ Nghinh điện cho Bí thư Quận 1 Trần Hưng Thừa ra lệnh giải phóng Đà Nẵng. TRONG ẢNH (từ trái sang): Các đồng chí Phạm Đức Nam, Phạm Thanh Ba, Hồ Nghinh, Trần Văn Đán. (Ảnh tư liệu)

 

Đó là lần hai người gặp nhau sau cùng rồi biệt tăm, biệt tích cho đến sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam tháng 4-1975!

Tình hình bức bách buộc anh phải chia tay vợ con. Anh không thể hiểu được điều gì sẽ xảy ra với hai mẹ con và càng không thể hiểu kẻ thù sẽ làm những gì trong thời gian hai năm ấy. Anh không về nhà nhưng bọn chúng thì nghĩ thế nào anh cũng mò về nhà thăm vợ trẻ, thăm con thơ nên đêm nào chúng cũng rình rập quanh nhà. Nhiều hôm, cả nhà đang ngồi ăn cơm tối bên ngọn đèn dầu không đủ sáng thì Cả Lương dẫn một tốp lính xộc vào nhà. Nhìn quanh không thấy anh, Cả Lương hỏi:

- Ông Thừa về ở đâu?
- Không biết anh Thừa ở đâu. Chị Hải trả lời.
 Bọn chúng không tin, dọa:
- Không chỉ ông Thừa ở đâu, tau bắn cả nhà.
- Mấy ông mà tìm được anh Thừa ở trong nhà này thì mấy ông bắn hết cũng được.
Vũ Đức Kỳ, em trai chị Hải khẳng định với bọn chúng.
Vẫn không tin, bọn chúng chia nhau lục tìm khắp nhà. Chúng rọi đèn pin cả trong những bụi cây um tùm ở khu đồi núi sau nhà. Tình hình đe dọa như vậy mà chị còn chần chừ muốn ở lại Cây Cốc với hy vọng một đêm anh ấy sẽ lần về!

May mà anh ấy không về!

Trần Hưng Thừa dằng dặc hai mươi năm sống với núi rừng cùng đồng đội, đồng chí luôn bị địch lùng sục, vây ráp bốn bề. Trải qua những ngày không có gạo, đói xanh xương, sốt rét rừng mặt bủng da vàng, và bom đạn ác liệt, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.  Còn vợ con của Trần Hưng Thừa, sau khi rời Cây Cốc-Tiên Thọ đã xuống Tam Kỳ, rồi lại rời Tam Kỳ về Hội An, ra Đà Nẵng… Nhằm mưu sinh, chị phải trải qua bao công việc không tên. Cuộc đời của chị cũng có thể viết nên một quyển sử bi kịch, đớn đau, vất vả của một người vợ trung thành với chồng theo kháng chiến, tay mang con dại ở trong vòng vây chợ đời đầy nanh vuốt.

… Sau khi Bí thư Trần Thận nhận chỉ thị của Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công từ cuộc họp ngày 21-3-1975, tại căn cứ của Khu ủy V ở Trà My, về đến căn cứ Hòn Tàu-Xuyên Hiệp-Duy Xuyên, thì ngày 24-3-1975, Ban Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà họp bàn và phân công nhiệm vụ cho các Ủy viên Ban Thường vụ. Trần Hưng Thừa nhận nhiệm vụ phụ trách bộ phận chỉ đạo nội thành lót vào thành phố trước, chuẩn bị huy động nhân dân nổi dậy giải phóng Đà Nẵng.

 Trần Hưng Thừa sinh ngày 14 tháng 4 năm 1921-Tân Dậu, tại Huế, nhưng lớn lên và công tác ở Quảng Nam-Đà Nẵng, thành người Quảng. Sống và làm việc với người Quảng Nam, được cán bộ, nhân viên và nhân dân quý mến, nhiều khi anh muốn nói giọng Quảng để người Quảng dễ nghe nhưng không giả tiếng được. Nhờ vậy, sau khi nhận nhiệm vụ của Thường vụ Đặc Khu ủy, ngày 28-3-1975, trên đường từ chiến khu Hòn Tàu vào Đà Nẵng, khi anh Hiệp dùng Honda chở anh vào đến ngã ba Huế, bị cảnh sát ngụy chặn hỏi:

 - Ông ở đâu vào đây?
- Tôi ở Huế. Ngoài nớ Việt Cộng đánh mạnh quá, vợ con sợ chạy vào Đà Nẵng tị nạn, tôi vào đây tìm vợ con.

Với giọng đặc Huế thế kia thì rõ là dân từ Huế chạy vào! Thế là viên cảnh sát Sài Gòn để một Ủy viên Thường vụ Đặc Khu ủy đi trót lọt vào nội thành Đà Nẵng, trực tiếp chỉ huy nổi dậy.

22 giờ đêm 28 tháng 3 năm 1975, nhận được tin Ngô Quang Trưởng, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I bỏ nhiệm sở lẻn lên máy bay trực thăng bay ra hạm đội 7 tìm đường thoát thân,Trần Hưng Thừa liền viết thư hỏa tốc cho giao liên chạy Honda ra Phái Nhì - Điện Hòa báo cho Ban Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà và đề nghị đưa lực lượng vào giải phóng thành phố ngay.

Sáng sớm ngày 29-3-1975, tại số nhà 245 đường Phan Châu Trinh-Đà Nẵng, Trần Hưng Thừa - Ủy viên Thường vụ Đặc Khu ủy, Bí thư Quận Nhất phát lệnh khởi nghĩa trong nội thành Đà Nẵng.

Chiều ngày 29-3-1975, Bí thư Đặc Khu ủy Trần Thận cùng bộ phận tiền phương của Đặc Khu ủy vào đến địa điểm 245-Phan Châu Trinh. Sau khi hội ý, các đồng chí quyết định triển khai một số công tác cấp bách nhằm lập lại trật tự trị an thành phố, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đưa sinh hoạt của thành phố nhanh chóng trở lại bình thường. Đến 17 giờ cùng ngày hôm đó, các đồng chí Trần Thận cùng Trần Hưng Thừa, Nguyễn Duy Hưng lên ô-tô chạy vào Thanh Quýt đón Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công và đồng chí Hồ Nghinh ra Đà Nẵng…

 Sau ngày 30-4-1975, đầy bận rộn, nhân có chuyến xe của một cán bộ vào Sài Gòn đón người thân, Trần Hưng Thừa nhờ lái xe đến đón hai mẹ con chị Hải. Lần theo địa chỉ và hỏi thăm, người lái xe gặp hai mẹ con chị Hải ở trong căn nhỏ của một gara ô-tô, đủ cho hai mẹ con chị đặt một cái ghế bố bên cầu tiêu. Từ cái gara ô-tô nhìn ra thấy chân cầu chữ Y-Sài Gòn. Chị gửi con gái Bích Thọ theo xe về Đà Nẵng trước, ở lại thanh toán tiền nong, nợ nần, trả luôn chiếc ghế bố cho người anh lái xe… rồi đón xe hàng về sau.

Nhắc đến Trần Hưng Thừa, anh em nhớ không biết bao nhiêu là chuyện. Hồi ở trên rừng, ốm đau, trên cho đi miền Bắc chữa bệnh, ông không chịu đi. Ông nói, biết bao nhiêu anh chị em đau ốm có được đi đâu mà bảo ông đi. Hòa bình, một lần được đi miền Bắc chữa bệnh, về lại miền Nam, trong các món quà từ miền Bắc về, có 30 cây bút máy Hồng Hà, ông đem tặng anh chị em trong cơ quan hết 29 cây, giữ lại một cây. Được mấy hôm, một nhân viên đến phân bì chưa có quà miền Bắc, ông mở cặp đưa nốt cây bút Hồng Hà cuối cùng. Hồi về Đà Nẵng, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, cơ quan phân phối một cái áo sơ mi màu trắng. Anh em trong cơ quan thì thích màu trắng, nhưng được phân toàn áo màu lam. Ông hỏi anh em nào thích màu trắng ông đổi cho.Và không biết anh nào nhanh tay, đổi ông  cái áo sơ mi màu lam.

Nhớ ông, mỗi khi muốn đến thăm ông, anh em thường hỏi: Tặng gì cho anh Thừa? Tặng gì ông cũng từ chối, duy chỉ một thứ ông không lắc đầu là ớt! Ông ăn cay như dân… Mệ!

Trần Hưng Thừa sống một cuộc sống khắc khổ nhiều hơn vui cười. Một cuộc sống rất lương thiện. Ông sống và làm việc nêu tấm gương cho nhiều người, làm công tác tư tưởng cho mọi người. Vậy mà, ông không có dịp nào an ủi, động viên người vợ trẻ và đứa con gái độc nhất trải qua những ngày cơ cực, trần ai! Cả một cuộc đời tất cả dành cho cách mạng, cho cái chung.

Khi giải phóng, đến lúc làm Chủ tịch thành phố, Nhà nước cấp cho ông một cái nhà. Ông cứ để vậy ở, không tu sửa, không nâng cấp và rồi cũng để lại cho chàng rể và cháu ngoại. Trước khi từ giã cõi đời vào ngày 10 tháng 1 năm 1992, nhằm ngày 18 tháng chạp năm Nhâm Thân, Trần Hưng Thừa để lại những dòng sau đây:

Hôm nay, ngày 14-1-1989, tại Đà Nẵng, tôi, Trần Hưng Thừa, gửi Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành ủy Đà Nẵng, bộ phận bảo tàng của Ban Văn hóa-Thông tin Đà Nẵng:

1- Một quần dài, một áo sơ mi trắng mà anh Sơn, Quận ủy viên hợp pháp quận Nhất và anh Hiệp, Trưởng ban cán sự Ngũ xã (thuộc quận Nhất), đã từ trong thành phố mang ra để tôi cải trang hợp pháp đi vào Đà Nẵng, ngày 28-3-1975, để tham gia lãnh đạo nhân dân nổi dậy, phối hợp với bên ngoài giải phóng thành phố Đà Nẵng ngày 29-3-1975.

2- Khẩu súng ngắn K.59 số 5351, do Thường vụ Đặc khu Quảng Đà cấp cho tôi trong thời kháng chiến và tôi đã bí mật mang theo ngày 28-3-1975 vào thành phố.

Từ biệt người thân, Trần Hưng Thừa nhẹ gánh đường xa, thanh thản ra đi, không nghĩ rằng mình còn để lại cho đời, cho những người làm công tác tư tưởng một mẫu người lương thiện, một cuộc đời làm cán bộ nói ít làm nhiều.

Hồ Duy Lệ

;
.
.
.
.
.