Tên khai sinh: NGUYỄN LINH, sinh ngày 12-12-1931, tại thôn Trung Hạ, làng Trung Phước, huyện Quế Sơn. Xa quê năm 1954. Từ năm 1956, Tường Linh vào sống tại Sài Gòn - Gia Định đến nay.
Gần 60 năm trước, “Năm cụm núi quê hương” (1954), Tường Linh đã viết về Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng: “Năm cụm núi không thể nào thiếu một/ năm ngón tay không thể chia lìa”... Ra đi từ gốc rạ với những câu thơ đã trở thành ca dao, Tường Linh lại “Gặp trên đường về” (2005) sự thật hồn nhiên rơm rạ của một cõi quê chung, trong một tâm thái: Bởi ta về phía mặt trời sẽ lặn / Không gặp ai, cả chiếc bóng của mình / Đi tay trắng thì trở về tay trắng / Thơ một đời gửi lại phía bình minh. Những bài dưới đây trích từ Thơ Tường Linh - tuyển tập, ấn hành tháng 8-2011.
(Nguyễn Đông Nhật chọn & giới thiệu)
Đêm trắng Ngũ Hành Sơn
Bạn cũ nay thành nhà sư
Chùa trên cao gọi mây nhập thế
Chuông ngân chao cánh Ngũ Hành Sơn.
Đối ẩm
Tình trả năm cụm núi
Lệ nến ròng ròng tâm sáp rọi
Mắt đời, mắt đạo nhận tình ong.
Khuya thẳm
Gió lùa sương trắng
Bài liên ngâm gửi lại áng thư
Bước trần lụy xuống dần từng bậc đá
Bóng bạn mờ đầu dốc phía Chân Như.
Thủy Sơn, 3-1990
Bạn cũ nay thành nhà sư
Chùa trên cao gọi mây nhập thế
Chuông ngân chao cánh Ngũ Hành Sơn.
Đối ẩm
Tình trả năm cụm núi
Lệ nến ròng ròng tâm sáp rọi
Mắt đời, mắt đạo nhận tình ong.
Khuya thẳm
Gió lùa sương trắng
Bài liên ngâm gửi lại áng thư
Bước trần lụy xuống dần từng bậc đá
Bóng bạn mờ đầu dốc phía Chân Như.
Thủy Sơn, 3-1990
Những mười năm
Những mười năm. Những
mười năm
Nối dài thêm hẹn về thăm
một người
Hẹn về từ thuở đôi mươi
Thời gian cứ khép từng
mười năm xa
Ngùi trông mai cỗi, trúc già
Sông khuya nhạt bóng trăng tà.
Lặng yên.
Người mười năm tháp
hương nguyền
Bắc cong cầu khói qua miền
gió sương
Ta mười năm ngựa cuốn đường
Vó băm chạm cõi Vô thường
lửa gai
Khép mi, vẳng tiếng khuya dài:
“Những mười năm có chờ
ai bao giờ”!
Cứ dày thêm những trang thơ
Với cay hạ nắng, với mờ thu ngâu
Đông mưa khuất hướng
nguyện cầu
Thềm xuân vẫn lạnh mắt sầu
đăm đăm…
Trễ tràng giữ hẹn về thăm
Những mười năm. Những mười
năm… mất người!
Những mười năm. Những
mười năm
Nối dài thêm hẹn về thăm
một người
Hẹn về từ thuở đôi mươi
Thời gian cứ khép từng
mười năm xa
Ngùi trông mai cỗi, trúc già
Sông khuya nhạt bóng trăng tà.
Lặng yên.
Người mười năm tháp
hương nguyền
Bắc cong cầu khói qua miền
gió sương
Ta mười năm ngựa cuốn đường
Vó băm chạm cõi Vô thường
lửa gai
Khép mi, vẳng tiếng khuya dài:
“Những mười năm có chờ
ai bao giờ”!
Cứ dày thêm những trang thơ
Với cay hạ nắng, với mờ thu ngâu
Đông mưa khuất hướng
nguyện cầu
Thềm xuân vẫn lạnh mắt sầu
đăm đăm…
Trễ tràng giữ hẹn về thăm
Những mười năm. Những mười
năm… mất người!
Vi diệu trắng
Giọt sương rụng xuống lá
Gió hắt giọt sương rơi
Giọt sương hiện trên tóc
Tuổi chiều nghiêng qua đời
Rồi tóc lên màu tuyết
Mùa hạc trắng rong chơi
Gậy trúc cùng lão trượng
Mất hút phía chân trời…
Lý qua cầu
Thuở nào xưa tôi thốt tiếng yêu em
Con sáo nhận bay nhanh về tả ngạn
Lý con sáo, em gieo chiều bảng lảng
Có cầu đâu tôi đáp lý qua cầu?
Nước vô tình giữ mãi một tầm sâu
Bờ bao tuổi mà bông lau trắng thế?
Sông huyền thoại chảy theo lời mẹ kể
Mẹ kể hoài, thêm nhánh rẽ vào thơ
Nhánh thêm dòng biêng biếc lách theo mơ:
Thuyền mai hậu đón em về hữu ngạn
Mẹ đứng ngóng bên bờ lau nắng sáng
Lại sang sông, con sáo lượn quanh thuyền…
Buổi trở về, tôi mất trắng hoa niên
Tóc mẹ trắng lẫn với bờ lau trắng
Con sáo nhỏ bỏ bầu trời trống vắng
Bờ quê em ai đợi lý qua cầu?
Dòng mơ riêng giờ biết chảy về đâu?
Sông huyền thoại thêm nhiều điều mẹ kể
Lời mẹ nghẹn, mắt già rưng ngấn lệ
Nhắc tên em… ngày lửa chiến chinh bùng…
Đời tôi còn nguyên vẹn dải sông chung
Và nhánh rẽ vào thơ không thể cạn
Bó hoa muộn trước mộ người tả ngạn
Một lần thôi, xin hát lý qua cầu.
Lão trượng
Cứ tự phong mình thành
lão trượng
Không đòi lương bổng, sợ ai la?
Thêm cây gậy trúc cho
hình tượng
Bầu rượu đeo lưng kiếm bạn già
Vay vốn đời qua những thập niên
Ngu ngơ nẻo tục, lạc đường tiên
Vốn bay, nợ đậu, đi không đến
Tơ nhện giăng đầy góc
bút nghiên
Đôi lúc quá buồn nên quá chén
Quên quên, nhớ nhớ luận
hồ trường
Tỳ bà tự cổ sầu Tư Mã
Thanh vọng còn run cốc
túy hương
Gậy trúc vân du cõi núi mờ
Mây xưa, suối cũ vẫn đòi thơ
Cảm ơn một phía tình chưa bạc
Thì lửa nào mong đốt cháy mơ?
Lão trượng ngồi nghiêm ngoài
chiếu rượu
Nghe người giành kể chuyện
“Nguyên Phong”
Đài thiêng đâu vắng hồn
chinh khách?
Men bốc, lời đưa nét sử cong!
Giày cỏ lần tìm lối ngõ quê
Người đi tóc trắng mới quay về
Cố viên đổi chủ, xin ngồi tạm
Nốc cạn bầu, say, gặp giấc kê
Dụi mắt, vỗ bầu, ca lạc giọng
Hiếu kỳ, trẻ nít tựu quanh nghe
“Thiếu niên bất thức sầu chi vị”
Sao khỏi ngầm chê:
hát chán phè!
Đổi hướng nhìn sang đỉnh
núi xưa
Ngậm ngùi ba ngọn bóng
cây thưa
Suối buồn dội mãi cung tan hợp
Thăm thẳm nguồn xa lợp
trắng mưa…
T.L
Thuở nào xưa tôi thốt tiếng yêu em
Con sáo nhận bay nhanh về tả ngạn
Lý con sáo, em gieo chiều bảng lảng
Có cầu đâu tôi đáp lý qua cầu?
Nước vô tình giữ mãi một tầm sâu
Bờ bao tuổi mà bông lau trắng thế?
Sông huyền thoại chảy theo lời mẹ kể
Mẹ kể hoài, thêm nhánh rẽ vào thơ
Nhánh thêm dòng biêng biếc lách theo mơ:
Thuyền mai hậu đón em về hữu ngạn
Mẹ đứng ngóng bên bờ lau nắng sáng
Lại sang sông, con sáo lượn quanh thuyền…
Buổi trở về, tôi mất trắng hoa niên
Tóc mẹ trắng lẫn với bờ lau trắng
Con sáo nhỏ bỏ bầu trời trống vắng
Bờ quê em ai đợi lý qua cầu?
Dòng mơ riêng giờ biết chảy về đâu?
Sông huyền thoại thêm nhiều điều mẹ kể
Lời mẹ nghẹn, mắt già rưng ngấn lệ
Nhắc tên em… ngày lửa chiến chinh bùng…
Đời tôi còn nguyên vẹn dải sông chung
Và nhánh rẽ vào thơ không thể cạn
Bó hoa muộn trước mộ người tả ngạn
Một lần thôi, xin hát lý qua cầu.
Lão trượng
Cứ tự phong mình thành
lão trượng
Không đòi lương bổng, sợ ai la?
Thêm cây gậy trúc cho
hình tượng
Bầu rượu đeo lưng kiếm bạn già
Vay vốn đời qua những thập niên
Ngu ngơ nẻo tục, lạc đường tiên
Vốn bay, nợ đậu, đi không đến
Tơ nhện giăng đầy góc
bút nghiên
Đôi lúc quá buồn nên quá chén
Quên quên, nhớ nhớ luận
hồ trường
Tỳ bà tự cổ sầu Tư Mã
Thanh vọng còn run cốc
túy hương
Gậy trúc vân du cõi núi mờ
Mây xưa, suối cũ vẫn đòi thơ
Cảm ơn một phía tình chưa bạc
Thì lửa nào mong đốt cháy mơ?
Lão trượng ngồi nghiêm ngoài
chiếu rượu
Nghe người giành kể chuyện
“Nguyên Phong”
Đài thiêng đâu vắng hồn
chinh khách?
Men bốc, lời đưa nét sử cong!
Giày cỏ lần tìm lối ngõ quê
Người đi tóc trắng mới quay về
Cố viên đổi chủ, xin ngồi tạm
Nốc cạn bầu, say, gặp giấc kê
Dụi mắt, vỗ bầu, ca lạc giọng
Hiếu kỳ, trẻ nít tựu quanh nghe
“Thiếu niên bất thức sầu chi vị”
Sao khỏi ngầm chê:
hát chán phè!
Đổi hướng nhìn sang đỉnh
núi xưa
Ngậm ngùi ba ngọn bóng
cây thưa
Suối buồn dội mãi cung tan hợp
Thăm thẳm nguồn xa lợp
trắng mưa…
T.L