Nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước là làng nghề lâu đời nhất và nổi tiếng nhất Đà Nẵng.
Nghệ nhân Lê Bền, một trong những lão làng của Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước hiện nay. Ảnh: L.G.L |
Nghề chế tác đá ở vùng năm ngọn núi này được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân có tên là Huỳnh Bá Quát mang nghề từ Thanh Hóa vào. Ban đầu, những người thợ đá bấy giờ chỉ khai thác đá tại chỗ dùng trong xây dựng và tạo ra một số dụng cụ lao động đơn giản như: cối xay, cối giã, đá buộc neo thuyền, đá buộc chài dụ cá… Sau đó, phát triển thêm các sản phẩm điêu khắc bia mộ, chế tác các tác phẩm nghệ thuật trang trí tại các miếu thờ, lăng tẩm, cung đình… cho tới những sản phẩm nghệ thuật trang trí có giá trị mỹ thuật cao.
Ngày trước, một người thợ giỏi trong làng là ông Huỳnh Bá Triêm đã từng ra kinh đô Huế trang trí các lăng tẩm, cung đình. Ông đã học được cách làm bộ ấm chén trà bằng đá cẩm thạch đỏ - sản phẩm được xem là độc đáo, tinh xảo nhất của nghề đá mỹ nghệ Non Nước hồi đó. Nhưng nói về người đầu tiên dùng đá quý tạc tượng là phải nhắc đến nghệ nhân Nguyễn Chất, ông đã tạo tác hai pho tượng thờ ở động Hoa Nghiêm và động Tàng Chơn, đến nay vẫn ngày ngày được khách hành hương chiêm ngưỡng.
Thời chống Mỹ, gia đình ông Huỳnh Phước Thảo đã bí mật tổ chức cưa, xẻ, vận chuyển gần 200 phiến đá trắng, đỏ, cẩm thạch quý hiếm đưa ra xây Lăng Hồ Chủ tịch. Màu đỏ của cờ đỏ sao vàng ghép bằng đá trang trí trên lăng đến nay vẫn còn thắm tươi niềm tự hào của người làng đá Non Nước.
Sau ngày thống nhất đất nước, những người làm nghề điêu khắc đá tập hợp lại thành lập HTX Đá mỹ nghệ Non Nước, hoạt động trong suốt thập niên 80 thế kỷ trước. HTX lúc đó chỉ có 130 xã viên; trong đó thợ điêu khắc có 35 người, còn hầu hết là lao động phổ thông. Nguyên liệu được khai thác tại chỗ, sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống. Sản phẩm mỹ nghệ lúc đó có kích thước nhỏ gọn, nghệ thuật điêu khắc độc đáo, nhưng số lượng chưa nhiều, chủ yếu là hàng gia dụng và vật lưu niệm phục vụ cho du khách trong nước và quốc tế mỗi khi tới Đà Nẵng.
Đến nay, theo ông Huỳnh Chín, Trưởng ban Quản lý Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, làng nghề hiện có 497 cơ sở sản xuất với trên 3.000 lao động, mỗi năm sản xuất ra khối lượng sản phẩm trị giá 120 tỷ đồng, chiếm gần 15% giá trị sản xuất của các ngành kinh tế do quận Ngũ Hành Sơn quản lý. Đã có gần 20 hộ thành lập website riêng để giới thiệu sản phẩm, góp phần đưa “Đá mỹ nghệ Non Nước” trở thành một thương hiệu lớn trong nước và thế giới. Sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước giờ đây không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn được đóng công-tai-nơ xuất ra thế giới, chủ yếu qua một số thương nhân nước ngoài.
Ban đầu các vị tiền hiền khai sáng làng nghề còn dùng cái vồ như vồ ép dầu - nghề đá gọi là cái cui - làm bằng gỗ đồi mồi để đập đá. Còn bây giờ, thời buổi khoa học kỹ thuật hiện đại, tất cả các hộ đều sử dụng các loại máy cầm tay, năng suất lao động cứ thế mà vụt lên như tên lửa. Nhiều công đoạn, kỹ thuật chế tác như chạm lộng chẳng hạn, ngày trước thủ công gần như không làm được thì giờ đây, với trợ thủ đắc lực là máy cơ giới, tất cả đều được giải quyết tất tần tật.
Tuy nhiên, hệ quả tất yếu từ sự phát triển nhanh của làng nghề là vấn nạn ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước uống do các hộ đều dùng a-xít để tẩy rửa và tạo độ bóng cho đá. Ngoài ra, bụi đá và tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
Trước thực trạng này, quận Ngũ Hành Sơn đã lập phương án di dời toàn bộ làng nghề tập trung tại tổ 17 khu vực Đông Trà, phường Hòa Hải, với quy mô 35,5ha. Theo ông Chín, các cơ sở sản xuất sẽ lần lượt chuyển vào khu quy hoạch làng nghề mới theo từng đợt với yêu cầu phải bảo đảm không ô nhiễm môi trường, nhà xưởng xây dựng phải che chắn được bụi, nước thải có a-xit phải về được bể xử lý, những loại tượng lớn sản xuất ngoài xưởng trại phải được che chắn bụi. Dự kiến đến tháng 10-2015 toàn bộ gần 500 cơ sở sản xuất sẽ di dời xong.
Nghệ nhân chế tác đá đã truyền nghề qua nhiều thế hệ con cháu của họ. Dần dần nghề chế tác đá mỹ nghệ tại phường Hòa Hải đã trở thành nghề truyền thống. Nghề vừa mang ý nghĩa kinh tế, tham gia xóa đói giảm nghèo, đồng thời cũng có ý nghĩa về đời sống tinh thần, phản ánh bản sắc văn hóa truyền thống địa phương.
LÊ GIA LỘC