.
Những cái nhất của Đà Nẵng

Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa

.

Bà là người phụ nữ Đà Nẵng đầu tiên cắt tóc ngắn, đi xe đạp; là người Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ; là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết nghiên cứu, khảo luận.

Huỳnh Thị Bảo Hòa là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ. (Ảnh tư liệu)
Huỳnh Thị Bảo Hòa là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ. (Ảnh tư liệu)

Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896-1982) tên thật là Huỳnh Thị Thái, sinh năm 1896 tại làng Đa Phước, nay thuộc phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Cha bà là ông Huỳnh Phúc Lợi, làm quan Triều Nguyễn đến chức Quang lộc Tự khanh thuộc hàm tam phẩm, nên thường được gọi là ông Quang Lợi, về sau ông tham gia Hội Cần vương Quảng Nam.

Từ nhỏ, bà học chữ Hán, chữ quốc ngữ rồi cả chữ Pháp. Lớn lên, bà lấy chồng là Hàn lâm viện Đại học sĩ Vương Khả Lãm. Theo chồng về sống ở Đà Nẵng, bà sớm thích nghi với cuộc sống thị dân, tiếp thu tư tưởng duy tân từ các phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Bà thường đăng đàn diễn thuyết tại Hội Lạc thiện Tourane, Công quán Tourane (nay là Nhà hát Trưng Vương) nhằm nâng cao tri thức cho chị em phụ nữ. Bà là người phụ nữ đầu tiên ở Đà Nẵng cắt tóc ngắn, đi xe đạp.

Năm 1926, được tin nhà yêu nước Phan Châu Trinh tạ thế tại Sài Gòn, bà cùng giới trí thức Đà Nẵng đứng ra tổ chức lễ truy điệu rất trọng thể, sau đó vận động ngân quỹ xây dựng nhà thờ cụ Phan trên đường Marc Pourpe, nay là đường Phan Châu Trinh, thành phố Đà Nẵng.

Khi nữ sử Đạm Phương đứng ra thành lập Nữ công học hội với sự hưởng ứng của phụ nữ ba miền, bà được cử làm Hội trưởng Hội Nữ công Đà Nẵng và giữ cương vị này cho đến Cách mạng tháng Tám 1945. Khi nổ ra Toàn quốc kháng chiến, bà tản cư một thời gian rồi quay về sống ở Đà Nẵng cho đến khi qua đời ngày 8-5-1982.

Bà không chỉ viết khảo cứu, viết văn mà còn tham gia viết báo. Bà từng là thông tín viên cho tờ Thực Nghiệp dân báo (Hà Nội), đồng thời cộng tác cho nhiều tờ khác như Nam Phong (Hà Nội), Tiếng Dân (Huế), Đông Pháp thời báo, Phụ nữ Tân văn (Sài Gòn)...

Năm 1927, tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn của bà ra đời (76 trang, Nhà in Bảo Tồn, Sài Gòn), kể lại câu chuyện có thật xảy ra tại Tam Kỳ (Quảng Nam) nói về mối tình chung thủy của cô gái Pháp lấy chồng Việt. Năm 2001, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, sau khi bất ngờ phát hiện bộ tiểu thuyết này ở Thư viện Quốc gia Hà Nội, đã viết bài trên Tạp chí Văn học khẳng định nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ.

Cũng năm 1927, bà viết kịch bản Huyền Trân công chúa, tác phẩm được hình thành sau thời gian bà làm bầu gánh hát bội tại nhà hát Hòa Bình, thành phố Đà Nẵng.

Năm 1931, bà cho in Bà Nà du ký trên Tạp chí Nam Phong số 163, ngày 12 tháng 6, ghi lại những cảm xúc chân thật của tác giả trong chuyến đi kiệu lên tham quan phong cảnh tuyệt đẹp của Bà Nà. Đọc thiên ký sự này, có thể mường tượng khoảng thời gian gần 80 năm trước, khi quốc ngữ chỉ vừa mới chập chững đi vào đời sống văn chương nước nhà. Thế nhưng, một cây bút nữ Đà Nẵng đã làm các nhà văn tên tuổi đương thời phải nể phục với văn phong giản dị mà giàu cảm xúc qua bài du ký miêu tả chuyến đăng sơn lên Bà Nà “cho biết non sông hoa cỏ” của bà.

Theo Thy Hảo Trương Duy Hy trong cuốn “Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa - Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên” (NXB Văn Học, 2003) và Nguyễn Sinh Duy trong “Quảng Nam và những vấn đề sử học” (NXB Văn hóa-Thông tin, 2006), bà còn là người phụ nữ đầu tiên viết nghiên cứu, khảo luận. Đó là cuốn Chiêm Thành lược khảo xuất bản năm 1936 với lời đề Tựa của chủ bút Tạp chí Nam Phong Phạm Quỳnh. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên bằng quốc ngữ viết về dân tộc và đất nước Chăm-pa.

Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004, trang 673, viết về bà và tiểu thuyết Tây phương mỹ nhơn của bà như sau:

“Tiểu thuyết được xuất bản vào năm 1927 (Nhà in Bảo Tồn, Sài Gòn) vài năm sau Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ở miền Bắc, tác phẩm của Huỳnh Thị Bảo Hòa theo mạch khai thác cốt truyện từ thực tế đời sống Việt Nam chứ không theo trào lưu mô phỏng tiểu thuyết phương Tây. Tuy nhiên, bà đã chọn cho câu chuyện một kết cấu theo kiểu tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. (…) Đánh giá vị trí nhà văn và cuốn tiểu thuyết của bà, Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà, Bùi Thế Mỹ đều cho rằng bà đã có công “vỡ núi mở đường”, “là ngọn cờ tiên phong cho đạo quân nương tử”, “là cuốn tiểu thuyết thứ nhất” của nữ giới Việt Nam viết bằng tiếng Việt. Tác phẩm là sự thể nghiệm đầu tiên và dường như cũng là cuối cùng đối với hình thức nghệ thuật chương hồi của tiểu thuyết quốc ngữ”.

Ở Đà Nẵng, tên bà đã được đặt cho con đường dài 245m, rộng 7,5m, từ đường 7,5m chưa đặt tên đến đường Hoàng Văn Thái, thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu.

LÊ GIA LỘC

 

;
.
.
.
.
.