“Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…”
Hàng cau ở gần khu vực Bệnh viện Y học cổ truyền Đà Nẵng. Ảnh: P.C.T |
Không chỉ có ở Vỹ Dạ xứ Huế như trong bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, hàng cau đầu ngõ là hình ảnh rất thân thuộc của mọi miền quê Việt Nam. Từ ngàn xưa, cây cau đã hiện diện và gắn kết trong muôn mặt văn hóa - đời sống người dân Việt: từ truyện tích Trầu cau nói về tình nghĩa anh em, chồng vợ, đến tập tục ăn trầu và các lễ nghi xã giao, cưới xin, tang ma,…
Trong một bài thơ điểm danh cây cối trong vườn nhà mình để giới thiệu cho các con biết, tôi đã rất tâm đắc với cây cau: “Thiết mộc lan đằm thắm/ Sử quân tử nồng nàn/ Nhưng mà ba thích nhất/ Là hương cau dịu dàng/ Hoa ẩn mình không thấy/ Mùi hương nhè nhẹ lan/ Dáng cau cao và thẳng/ Không kiểu cách điệu đàng/ Lá xoè như tay vẫy/ Mộc mạc mà thân thương…”.
Với tôi, cau còn là loài cây dẻo dai, kiên cường bất khuất bậc nhất. Tôi nhớ mãi hình ảnh hàng cau trước ngõ oằn mình nghiêng ngã trong cơn bão Xangsane năm 2006. Vậy mà khi trận cuồng phong đi qua, những cây cau lại bật dậy, hiên ngang vươn mình đứng thẳng, mặc cho những tàu lá xơ xác tả tơi. Trong khi đó cả một vườn xoài và nhiều cây cối khác trong vườn nhà tôi gãy đổ, ngã rạp không thể nào dựng dậy được nữa.
Theo các nhà khoa học, cau là cây có nguồn gốc ở Malaysia, sau được nhập trồng sang các nước khác ở Đông Nam Á và Nam Á, sang cả Madagasca và Đông Phi. Cau không chỉ được trồng làm cảnh hay lấy quả ăn trầu mà còn dùng làm thuốc trong Đông y.
Để làm thuốc, người ta thu hái những quả cau già lấy hạt và vỏ quả. Hạt phơi hoặc sấy đến thật khô. Khi dùng đem hạt khô ngâm nước 2-3 ngày cho mềm, Mỗi ngày thay nước một lần (không nên ngâm vào dụng cụ bằng sắt, vì trong hạt có tanin).
Vớt ra để ráo nước, thái mỏng, phơi hoặc sấy ở nhiệt độ 40-50oC tới độ ẩm dưới 10% (không được sao). Vỏ quả đem rửa sạch, ủ mềm một đêm, xẻ tơi, phơi hoặc sấy khô tới độ ẩm dưới 10%, tẩm rượu sao (tùy theo đơn) có thể nấu thành cao đặc. Cần bảo quản nơi khô ráo, thỉnh thoảng sấy lại để phòng mốc mọt.
Theo Đông y, hạt cau gọi là Tân lang (檳 榔), có vị cay, đắng, chát, tính ấm, có tác dụng khu trùng, hành khí, tiêu tích, đạo trệ, lợi thủy, tiêu thũng; thường dùng trị bệnh sán xơ mít, giun đũa, sán lá, thủy thũng cước khí, chữa sốt rét, kích thích tiêu hóa, chữa viêm ruột, ỉa chảy, chốc đầu. Thường dùng 0,5-1g/ngày, dùng trục giun sán với liều cao hơn.
Vỏ quả cau còn gọi Đại phúc bì (大腹皮), có vị ngọt, hơi the, tính ấm, có tác dụng hành khí đạo trệ, lợi thủy tiêu thũng; dùng trị thực tích, bụng đầy, thấp trở khí trệ gây bụng trướng khó chịu, bí đại tiểu tiện, thủy thũng, cước khí. Thường dùng 6-12g/ngày, dưới dạng thuốc sắc.
Một số bài thuốc thông dụng:
- Trục giun đũa: Dùng 21 hạt cau tán mịn, nhịn ăn, chia uống làm 2-3 lần trong một ngày với nước sắc vỏ quả cau (theo Bách gia trân tàng của Hải Thượng Lãn Ông).
- Xổ sán xơ mít: Buổi sáng, lúc đói, ăn 40-100g hạt bí đỏ đã bóc vỏ, sau đó 2 giờ, uống nước sắc Hạt cau với liều 50-80g tùy người, đun với 500ml nước, sắc còn 150ml uống một lần; nửa giờ sau uống một liều thuốc tẩy. Nằm nghỉ đợi khi buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước ấm.
- Chữa sốt rét: Hạt cau 2g, Thường sơn 6g, Thảo quả 2g, Cát căn 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
- Chữa khó tiêu, đầy trướng bụng: Dùng hạt Cau 10g, Sơn tra 10g, sắc nước uống. Hoặc dùng Vỏ quả cau, Hạt cải củ, Mầm lúa mạch mỗi thứ 15g sắc uống.
- Đau bụng vì táo bón, kiết lỵ mót rặn, đi cầu khó: Hạt cau 10g, Đại hoàng 8g, Mộc hương 6g, sắc uống.
- Phù thũng, đại tiểu tiện không thông, bụng trướng: Hạt cau 15g, Trạch tả 15g, Đại hoàng 8g, Mộc thông 6g, sắc uống. Hoặc dùng Vỏ quả cau 10g, Vỏ nấm phục linh 15g, Mộc thông 6g, sắc uống.
- Trẻ em bị chốc đầu: Dùng hạt cau mài lấy bột hòa với dầu mè mà bôi.
- Cầm máu: Bột hạt cau rắc lên vết thương.
- Chữa liệt dương: Rễ cau nổi (rễ màu trắng mọc lộ ra trên mặt đất) 20-30g, cắt nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
Cần lưu ý, mới đây Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) vừa công bố danh sách 116 nguyên nhân được coi là làm tăng khả năng gây ra ung thư, trong đó cùng với việc hút thuốc lá, uống bia rượu, ăn thịt chế biến sẵn,… tục ăn trầu cau (nhai với vôi, có hoặc không có thuốc lào) cũng là thủ phạm quan trọng.
Một nghiên cứu tại Đài Loan trước đó đã khẳng định chất arecoline và arecaidine có trong cau có thể gây ra những biến đổi trên DNA làm tăng nguy cơ ung thư. Vì vậy hiện nay ngành y tế đang khuyến cáo mọi người bỏ tục ăn trầu cau để phòng tránh ung thư vòm họng.
PHAN CÔNG TUẤN