ĐỌC KÝ VÀ TÙY BÚT CỦA NGUYỄN ĐÌNH AN (NXB ĐÀ NẴNG, 2008)

Giữ cho những mùa xuân ở lại...

.

Ký và tùy bút của Nguyễn Đình An trước hết là cái nhìn của người trong cuộc về cuộc sống hôm nay, và đặc biệt là cuộc sống của những ngày tháng gian khó, khốc liệt nhưng anh dũng, hào hùng đã qua. Trong 37 bài viết, tác giả chỉ dành 2 bài nhan đề trực tiếp nói về mùa xuân. Đó là, Đà Nẵng đêm trước mùa xuânCó một mùa xuân như thế… nhưng có đến 20 bài có dấu mốc liên quan đến mùa xuân. Điều đó đã phần nào thể hiện một ý niệm về thời gian nghệ thuật ở ngòi bút của tác giả.

Niềm thao thức để viết, theo tác giả, được bắt đầu từ mong ước “những dòng chữ, những mẩu tin, những bài báo… có sức mạnh như một cây chông, một loạt đạn tiêu diệt giặc thù, để có tờ báo đến với người dân như một sự hiện diện của cách mạng” (Tờ báo ngày ấy - Sự hiện diện của cách mạng), từ “sự thôi thúc từ cuộc kháng chiến thần kỳ đầy hy sinh của nhân dân đất Quảng…, của những người lãnh đạo đã dìu dắt những trí thức trẻ dấn thân vào cuộc trường chinh của dân tộc” (Nhớ ngày ấy, anh Nghinh và anh em báo chí Văn nghệ).

Sự khốc liệt của chiến tranh

Ký và tùy bút gợi lại hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của quân và dân xứ Quảng. Hiện thực mà trong độ lùi của thời gian đã trở nên khách quan và sâu lắng hơn. Ở đó, trong thế tương quan lực lượng thật không cân xứng, một bên là quân đội viễn chinh Mỹ và tay sai ngụy quyền với sức mạnh hùng hậu về kinh tế, về khí tài (Thế kỷ mới, nói chuyện cũ); và phía bên này là những người chiến sĩ cộng sản vốn là trí thức, công nhân, nông dân và các giai tầng khác vì yêu nước mà giác ngộ theo con đường kháng chiến với tâm hồn thanh thản phơi phới một niềm tin dù rằng cuộc sống lúc đó luôn phải chạy càn, chui hầm vất vả, căng thẳng, có khi tránh sự phát hiện của địch mà thấy ngày cũng dài như một thế kỷ vì “phải nằm im trong vạt tranh chịu cái nắng ong ong, hầm hập… mà không được làm gì, không được trò chuyện với ai tuy biết là các đồng chí vẫn ở quanh đây, chỉ cách 5,7m” (Thượng Phước ngày ấy), khi mà sự sống và cái chết được đo bằng ngày, bằng giờ, bằng những khoảnh khắc. “Có khi trong mưa lụt, mọi hầm bí mật bị chìm trong nước, bọn địch dùng trực thăng, xe lội nước vây ráp mấy chỗ cao, nơi Việt Cộng phải dồn về. Nhiều trận thất thế, anh em mình thương vong và bị bắt nhiều lắm” (Có một mùa xuân như thế). Có lúc là những trận “bom B52 trút xuống đúng khu cơ quan. 15 đồng chí hy sinh. 6 đồng chí ngủ trong một hang đá, bom nổ những khói đá lớn sập xuống, chôn vùi mãi mãi các đồng chí… Nhiều đồng chí chết vì sức ép của bom không còn mảnh quần áo trên thân. Nhiều đồng chí không có vết thương thực thể nhưng máu trào ra mũi, ra miệng, đến nay vẫn mang di họa trong người”. Rồi bom quét nổ trong ngày trước tết Mậu Thân ở Gò Nổi đã đưa Tân Nhân - một ký giả kịch trường, Văn Cận - nhạc sĩ và 7 đồng chí nữa mãi nằm yên trong lòng Đất Mẹ (Xin cảm ơn Chu Cẩm Phong)

Lý giải về thắng lợi cuộc kháng chiến

Nguyễn Đình An đã đưa ra những nguyên nhân. Trước hết, là có những người lãnh đạo quyết chí, thấu tình như Hồ Nghinh, Phạm Đức Nam, Phan Duy Nhân, Trương Chí Cương, Võ Bá Huân… với nét nổi bật luôn ở phía trước, nơi gian khổ nhất, ác liệt nhất để động viên, chia sẻ, yêu thương đồng chí đồng đội, chỉ cho cấp dưới sức mạnh vô tận của nhân dân, cách nhìn ra lòng yêu nước, chất cách mạng của nhân dân ngay cả lúc ngặt nghèo nhất để từ đó dựa vào dân mà sống làm việc cho Đảng (Những người Mậu Thân). Thứ nữa là có những người như chị Tính, cô xã đội trưởng gan dạ ngày nào đã nhiều lần một mình vào sào huyệt giặc diệt ác; có chị Năm một mình từ Túy Loan vượt qua bao đồn bốt giặc để vào Gò Nổi, báo cáo mũi đấu tranh chính trị ở khu II Hòa Vang và nhận mệnh lệnh mới từ cấp trên; có chị Bảy ở Gò Nổi với cách hành xử kín đáo tế nhị (Chuyện hai chị Bảy, có chị Bảy ở Duy Xuyên “lấy những tấm gỗ tốt nhất của gia đình mình để làm hầm nuôi cán bộ, rồi tối tối khi anh em đã ngủ yên, chị đếm số võng cột trong nhà và số dép ở cửa hầm để tính số người ăn sáng lo nấu cơm, chẳng cần ai báo gì cả…”.  Và điều quan trọng nhất là có bao người biết xả thân cho nghĩa lớn, biết hy sinh quyền lợi của cá nhân khi nghĩ về ngày mai tươi sáng hơn: “Đến mùa thu hoạch, theo lời kêu gọi của Đảng, họ (những người dân Cơ tu) chỉ dành một ít lúa làm giống cho mùa sau, ngay giữa mùa suốt lúa họ cũng chỉ có vài ba bữa ăn cơm không độn, còn tất cả đều giao cho cách mạng. Và rồi họ, kể cả người già, người đau và trẻ em đều ăn sắn, hết sắn thì họ ăn rau rừng, không khi nào đụng đến một hạt gạo đã dành cho nuôi quân, đánh Mỹ” (Cảm nhận Quảng Nam-10 năm một chặng đường).

Sức hấp dẫn của Ký và tùy bút ở chỗ, tác giả đã vận dụng một cách linh hoạt lời ăn tiếng nói của người dân nên tạo dựng được không khí tự nhiên, dân dã, gần gũi, phù hợp với bối cảnh của các câu chuyện kể; đã xen lồng nhiều tục ngữ, ca dao, thơ, những câu chuyện, những trang nhật ký, bút   ký lồng trong chuyện, trong hồi ức tạo ra sự uyển chuyển cho mạch văn.

Một nguyên nhân thắng lợi nữa, theo Nguyễn Đình An, đó là nhờ làm tốt công tác tuyên huấn, dân vận - mà trong đó bản thân ông cũng là một thành viên. “Trong những ngày gian lao ác liệt ấy trái tim chúng tôi đập một nhịp với trái tim nhân dân, suy nghĩ của chúng tôi luôn theo một mạch với nghĩ suy của nhân dân, ngày đêm chúng tôi nung nấu quyết tâm để mỗi việc làm, mỗi lời nói của mình đều hợp với lòng dân, đều vì dân” (Thề mãi mãi là dân Cụ Hồ); “làm cách mạng, làm tuyên huấn muốn tốt phải giữ được ngọn lửa, phải nghĩ cho ra những cách làm công tác tư tưởng sáng tạo, sắc bén, lay động lòng người” (Nhớ về đại hội Đảng bộ Đặc khu Quảng Đà) và với ý nghĩ, “là Đảng vẫn còn nợ dân, nợ những người trung kiên chí cốt một lòng theo Đảng, chịu đựng bao gian khổ hy sinh”, biết và dám mạnh dạn thừa nhận những khuyết điểm trước nhân dân, bởi lẽ hiện thực cuộc sống thì vô cùng mà bản thân của mỗi người, của một đội quân - dù tiên phong đến mấy - thì vẫn luôn bị giới hạn; Cách mạng đang có bao nhiêu việc phải làm (và có những việc chúng ta làm chưa thật tốt); có khi do vô tình nhầm mà không biết, như việc tháo dỡ nhà bà Tám ở Gò Nổi để lấy gỗ cưa làm hầm nhưng vô tình cũng cưa luôn hai cây đòn rồng (cây gỗ tròn, thẳng, đường kính khoảng 10 phân, dài khoảng 4-5m dùng để khiêng hòm đưa người đã mất về nơi an nghỉ cuối cùng - theo tác giả) của thôn nhưng nhân dân vẫn thông cảm, bỏ qua cho “Thôi, nói để mấy anh biết, chớ các anh làm hầm là để sống mà lo việc lớn cho dân cho nước. Phải lo cho các anh sống đã, còn lo cho người nằm xuống, không có mấy cây đòn rồng đó, chúng tôi sẽ tính sau” (Những người Mậu Thân), rồi việc một cán bộ trong lúc đi tìm ghè để cất giấu gạo, muối, giấy, mực rô-nê-ô cho cơ quan do vô ý đã làm thối cả ghè thuốc của người dân và người chỉ huy đơn vị ấy ghi lại giấy định đền bù nhưng chính người dân ấy ý kiến “Tôi nói chuyện đó cho các anh biết, để các anh lần sau làm gì cũng phải cẩn thận. Chứ tôi đâu có đòi tiền các anh. Mà tôi nói thiệt các anh đâu có tiền. Tiền của các anh cũng là tiền của nhân dân” (Thượng Phước ngày ấy).

Và chắc chắn còn bao nhiêu chuyện khác nữa, mà trong cái bối cảnh chiến tranh nhiều khi không-thể-khác-được ấy, nhưng nhân dân vì nghĩa vì tình vì công cuộc đại sự mà đã sẵn sàng tha thứ, bao dung. Nói điều ấy để thấy rằng, một khi nhân dân đã coi những người làm cách mạng là con, là anh em, là người đang dẫn đường cho họ tiến về phía trước thì tất cả những hành xử, những sẻ chia về vật chất và tinh thần đều được đặt trong trường quan hệ đó.

Vận dụng linh hoạt lời ăn tiếng nói của người dân

Sức hấp dẫn của Ký và tùy bút ở chỗ, tác giả đã vận dụng một cách linh hoạt lời ăn tiếng nói của người dân nên tạo dựng được không khí tự nhiên, dân dã, gần gũi, phù hợp với bối cảnh của các câu chuyện kể; đã xen lồng nhiều tục ngữ, ca dao, thơ, những câu chuyện, những trang nhật ký, bút ký lồng trong chuyện, trong hồi ức tạo ra sự uyển chuyển cho mạch văn. Mạch thời gian được tác giả chuyển đổi nhanh: Lúc ấy… lúc này…; thời khắc ấy… hôm nay…; với nhiều liên tưởng: Tôi nhớ, tôi còn nhớ, tôi nhớ mãi, nhớ ngày nào, một ngày tôi không nhớ rõ, tôi nhớ những ngày, chúng tôi luôn nhớ về, nhớ lại những ngày ấy mà nghĩ về Việt Nam, về thành phố Đà Nẵng… với các số liệu được cung cấp một cách cụ thể tạo nên sự tin cậy; với câu văn thường dài gồm nhiều vế, nhiều ý tạo sự gợi mở và đặc biệt là nghệ thuật lặp có tác dụng nhấn mạnh.

Và sức hấp dẫn đó còn là sự lan tỏa cảm xúc của tác giả, có khi ẩn trầm trong giọng điệu, trong lời văn: “Đà Nẵng đang sống những đêm trước mùa xuân. Đà Nẵng đang lao vào một cuộc sống sôi sục, mãnh liệt khác hẳn cuộc sống quay cuồng, rối rít, dưới ánh đèn nê-ông. Trong bước chân nhẹ nhàng của những tổ tự vệ nội thành, Đà Nẵng như nghe thấy tiếng nổ vang động, vang động hơn cả tiếng bom Lê Độ mùa xuân năm nào.” (Đà Nẵng đêm trước mùa Xuân). Có khi tạo sự vương vấn qua những câu hỏi cứ trở đi trở lại: làm thế nào, vì sao, tại sao, làm sao để, nếu như không… Và có khi lại được lồ lộ theo cùng câu chữ: tôi tin rằng, tôi chú ý, tôi choáng ngợp, tôi thấy nhói trong tim, chúng tôi đứng lặng, chúng tôi đều sững sờ… Độ truyền và sự lan tỏa ấy dễ tạo nên những tiếng đồng vọng từ phía người đọc.

Gấp lại tập sách, tôi vẫn như thấy trước mắt mình bóng hình hiên ngang, khí khái rất Quảng Nam của chị Hồng, chị Bảy, chị Tính, chị Năm, của anh Ba Phước, anh Sáu Nam, anh Toàn, anh Tỉnh; tôi như nghe bên tai mình nhịp bước của trùng trùng các đội quân từ Duy Xuyên - Gò Nổi, từ Hội An - Hòa Hải, từ Thượng Phước - Hòa Vang… những đội quân vốn có tên và không tên đã làm nên những Mùa Xuân cho dân tộc; tôi như hiểu hơn về những trăn trở, hy sinh của bao lớp người đi trước để có được một Đà Nẵng hôm nay.

NGUYỄN ĐÌNH VĨNH
2010            

-------------------------
ĐNCT: Nhà văn hóa Nguyễn Đình An vừa từ trần, Đà Nẵng cuối tuần giới thiệu bài này như một nén hương lòng tưởng nhớ người gắn bó với công tác báo chí Quảng Nam Đà Nẵng và Đà Nẵng.

;
;
.
.
.
.
.