.

Những chặng đường vẻ vang

L.T.S: Quân đội ta từ nhân dân mà ra, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Chặng đường anh hùng trong 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tô thắm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc, làm rạng rỡ thời đại Hồ Chí Minh.

Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, 20 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1944 – 22-12-2009), từ số báo hôm nay, Báo Đà Nẵng mở chuyên mục “Những chặng đường vẻ vang” giới thiệu những cột mốc thắng lợi của Quân đội Nhân dân Việt Nam, những trận đánh vang dội của lực lượng vũ trang thành phố Đà Nẵng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Phần I: 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2009)

* Quân đội Nhân dân Việt Nam ra đời và cùng toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công

Trong Chính cương vắn tắt, Luận cương Chính trị tháng 10-1930, Đảng ta đã khẳng định con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc phải tổ chức ra quân đội công nông để giành chính quyền và giữ chính quyền. Vì vậy, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các tổ chức vũ trang lần lượt được hình thành là Đội tự vệ đỏ (Xích đỏ) trong Cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng (1930-1931).
 
Những năm 1940-1945, các đội du kích Bắc Sơn (Lạng Sơn), du kích Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ (Trung Kỳ), đội du kích Pắc Bó (Cao Bằng), Cứu Quốc quân được hình thành. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh cách mạng đòi hỏi cách mạng Việt Nam lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Cuối tháng 10-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Hà Quảng, Cao Bằng. Sau khi phân tích tình hình cách mạng ở trong nước, Người trực tiếp giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang để hoạt động và lập đội quân giải phóng.

Căn cứ chỉ dẫn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Lê Quảng Ba họp bàn thống nhất tổ chức 1 trung đội, gồm 3 tiểu đội, lực lượng chủ yếu lấy từ các đội vũ trang châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Ngân Sơn... và một số đồng chí đã từng học quân sự ở nước ngoài về.

Theo Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Tham dự Lễ tuyên thệ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tại khu rừng giữa tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) có 34 chiến sĩ, được chia thành 3 tiểu đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì buổi lễ thành lập và thay mặt Đoàn thể đọc diễn văn tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng. Đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách công tác kế hoạch - tình báo.

Thực hiện lời dạy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Trong một tháng phải có hoạt động, trận đầu nhất định phải thắng”, ngày 25-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tiến công đồn Phai Khắt; ngày 26-12-1944 tiến công đồn Nà Ngần. Cả hai trận đánh đầu tiên, Quân đội ta đều giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch, mở ra truyền thống Quyết chiến, Quyết thắng, biết đánh, biết thắng kẻ thù xâm lược của Quân đội ta.

Tháng 3-1945, Thường vụ Trung ương họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân...) thành Việt Nam giải phóng quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng.

Từ tháng 4-1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15-5-1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam giải phóng quân.

Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, Đảng ta đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc quân. Năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam.

(Còn nữa)

;
.
.
.
.
.