Trải qua các giai đoạn tìm đường (1911-1920), mở đường (1921-1930), dẫn đường (1930-1945), Hồ Chí Minh bước vào thời kỳ thiết kế tương lai từ khi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc.
" Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. " |
Trong những năm tìm đường cứu nước, xem xét cuộc sống, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, dân chủ, công bằng, nhân đạo, khác hẳn cái xã hội đầy rẫy áp bức, bất công ở Tổ quốc mình cũng như ở các nước khác, nghĩ đến một xã hội văn minh cho dân tộc mình và các dân tộc khác. Với ước mơ đó, ngay từ những ngày bôn ba trên đất khách quê người, Người đã nghĩ đến người nghèo. Trong thời gian này, anh Ba chịu khó học tiếng Anh và động viên những người bạn cùng học. Những suy nghĩ và việc làm này của anh Ba theo suốt cuộc đời anh, sau này trở thành quan điểm và phương châm hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong thời khắc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hồ Chí Minh đã ghi lên lá cờ của Đảng một thông điệp về con đường phát triển của Việt Nam. Đó là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, tiêu ngữ của nước Việt Nam mới là Dân chủ - Cộng hòa - Độc lập -Tự do - Hạnh phúc. Đây chính là triết lý Hồ Chí Minh về phát triển Việt Nam. Theo quan điểm của Người, nước Việt Nam thuộc địa thì nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa sống còn với dân tộc và Tổ quốc là đấu tranh giải phóng dân tộc theo tinh thần “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho kỳ được độc lập, tự do”. Nhưng giành độc lập dân tộc mới chỉ là nhiệm vụ trước mắt, còn nhiệm vụ lâu dài là làm cho mỗi người và mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Các nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề ra ngay sau ngày tuyên bố độc lập về giải quyết nạn đói, nạn dốt; thực hiện quyền tự do dân chủ bằng Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội; xây dựng đạo đức mới với những nội dung cần, kiệm, liêm, chính, dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết là sự khẳng định bổn phận Chính phủ mới là công bộc của dân.
Tuy cả nước còn phải tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm, tức là vẫn nằm trong quy luật của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng và hành động theo quy luật của nhiệm vụ củng cố chính quyền và xây dựng xã hội mới. Người ý thức rất rõ những khó khăn, thách thức của công việc kiến thiết đất nước. Theo Người, “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”. Trong Di chúc Người viết: “Chống lại những gì cũ kỹ lạc hậu, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ”.
Khó đến mức khổng lồ nhưng không thể không làm, vì đây vừa là sứ mệnh vừa là vinh quang của một Đảng cầm quyền, của một chính thể cộng hòa dân chủ. Khó nhưng phải làm vì phát triển xã hội còn là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Bởi vì: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Với tư duy mang chất lượng khoa học, cách mạng và nhân văn, ngay từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đã kêu gọi Đảng và Chính phủ phải thực hiện ngay: 1- Làm cho dân có ăn; 2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học hành.
Từ học thuyết giải phóng đến học thuyết phát triển, Hồ Chí Minh đã để lại một di sản toàn diện, sâu sắc, chỉnh thể về chủ trương và phương thức thực hiện. Đó cũng chính là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người quan tâm đến phát triển nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Đó là một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với nhiều chế độ sở hữu. Phát triển kinh tế trong nước kết hợp với hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế. Bảo đảm công bằng xã hội trong phát triển kinh tế.
Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa mới đầy đủ các yếu tố về tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị. Nền văn hóa đó phải dựa trên nền tảng kinh tế nhưng đồng thời lại tác động tích cực trở lại kinh tế. Không những thế, tiếp cận theo triết lý phát triển, văn hóa đóng vai trò to lớn, “soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh, “văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Văn hóa phải làm cho mỗi người và mọi người hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng. Văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Lõi cốt và hạt nhân của văn hóa là con người. Con người là chủ thể, là sản phẩm của văn hóa, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”. Cùng với văn hóa, các chính sách xã hội cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng. Người quan tâm đến hạnh phúc của đồng bào nói chung, trong đó đặc biệt quan tâm đến người nghèo, “làm cho người nghèo thì đủ ăn”, đối với phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, với thương binh và các gia đình liệt sĩ, gia đình và người có công với cách mạng, đồng bào các dân tộc ít người, tôn giáo.
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh phản ánh tầm nhìn về nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng. Đó phải là một Đảng đạo đức và văn minh. Bởi vì Đảng có vững cách mạng mới thành công. Người có tầm nhìn xa về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đó là một Nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do Đảng lãnh đạo, kết hợp nhuần nhuyễn “đức trị” với “pháp trị”. Để một xã hội phát triển nhanh, lành mạnh, bền vững phải có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhưng nhân tố có ý nghĩa quyết định là con người. Bởi vì, như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, mọi việc đều do người làm ra; Đảng là mỗi chúng ta; mọi sự thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, để Việt Nam phát triển, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng nhân tố con người, nguồn lực con người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên. Với Hồ Chí Minh, cán bộ cần những tố chất về phẩm chất đạo đức, chính trị, chuyên môn; về năng lực trí tuệ; về phong cách công tác, lãnh đạo; đặc biệt là bản lĩnh chính trị, văn hóa. Đó chính là động lực của sự phát triển.
Hồ Chí Minh chú trọng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế theo tinh thần “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu lên tám đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam. Đó thật sự là những đặc trưng bản chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Phát triển Việt Nam là công việc lâu dài, đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và trí tuệ, lực lượng, niềm tin của cả dân tộc. Để có một Việt Nam phát triển nhanh, bền vững theo quan điểm Đại hội XI của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Bùi Đình Phong