.

Chuyện người "quốc sự phạm" đầu tiên ở Côn Lôn

.

Tháng 3 năm 1908, nhân vụ “Trung Kỳ dân biến”, chí sĩ Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, chúng buộc lòng phải kết án “Xử tử phát Côn Lôn, ngộ xá bất nguyên” (tội chém nhưng đày đi Côn Lôn, gặp ân xá cũng không  tha). Một tháng sau, Phan Châu Trinh đặt chân đến Côn Lôn. Cụ là “quốc sự phạm” (như chính trị phạm) đầu tiên bị đày ra đây. Trước đó, đảo Côn Lôn chỉ có tù thường phạm.

Bài thơ Đập đá Côn Lôn được khắc trên bia dựng tại khu đập đá của tù khổ sai.(Ảnh Internet)
Bài thơ Đập đá Côn Lôn được khắc trên bia dựng tại khu đập đá của tù khổ sai.(Ảnh Internet)

Khi cụ Phan ra đảo, ăn mặc, nói năng và cử chỉ đều khác tù thường, ma-tà (tiếng Mã Lai, nghĩa là người lính canh tuần – ĐNCT), và tù thường nghe nói cụ ở ngoài triều làm quan nên gọi là “quan to”. Thực dân Pháp đối xử với cụ Phan khác với tù thường: không bận đồ tù, không ăn cơm tù, không làm công việc tù.

Mỗi ngày, sớm mai và chiều được ra trước hiên để đi bách bộ một đôi giờ. Lúc mới ra đảo, cụ ở trong khám hơn một tuần, sau đó được quan Tham biện cho ra ngoài ở làng An Hải (một làng duy nhất của thổ dân trên đảo lúc bấy giờ), tập nghề đồi mồi làm kế sinh nhai hoặc đi câu, đi lưới. Chỉ mỗi tuần lễ, ngày chủ nhật mới vào trình diện phòng giám thị trại giam (Gardien Chef) một lần mà thôi.

Mặc dù được thực dân Pháp “biệt đãi” hòng lung lạc, nhưng trước sau cụ Phan vẫn giữ vững chí khí cao cả của nhà ái quốc. Cụ sáng tác bài thơ Đập đá Côn Lôn nổi tiếng được truyền tụng sâu rộng ở Côn Lôn, trở thành “tuyên ngôn” của những người tù chính trị yêu nước đất Việt đầu thế kỷ XX:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,/ Lừng lẫy làm cho lở núi non/ Xách búa đánh tan năm bảy đống,/ Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn,/ Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,/ Mưa nắng càng bền dạ sắt son./ Những kẻ vá trời khi lỡ bước,/ Gian nan chi kể chuyện con con.

Ba năm ở Côn Lôn, Phan Châu Trinh không hề chịu khuất trước cường quyền. Cụ Huỳnh Thúc Kháng kể lại: “Mới ra Côn Lôn còn tạm giam trong bagne (nhà ngục), tiên sinh gửi tiền cho một tên ma-tà nọ mua thuốc giấy..., lâu mà không thấy đưa vào, tiên sinh ra cửa nhà giấy đòi mãi, tên nọ giận lắm, vu rằng tiên sinh chửi mắng lính. Gardien Chef vào hỏi, tiên sinh biện bạch cứng cỏi. Chef Tây cầm roi mây lăm lăm, tiên sinh giựt mà bẻ gãy, anh Chef giận, xin với Tham biện phạt 7 ngày xiềng”.

Khi được ra ở ngoài làng An Hải, bọn hào lý ghét cụ Phan vì cụ tính tình ngay thẳng, không chịu tuân theo lệnh như các tù nhân khác. Nhân dịp trong bagne có dịch, ngày chết năm, ba người, chúng muốn trả đũa cụ bằng cách báo với quan Tham biện rằng người tù này tính tình ngang bướng, không tuân lệ làng và nhất định trả lại cho quan, làng không dám bảo lãnh nữa.

Nghe vậy, cụ Phan khảng khái nói: “Con ma chuyên chế, con sát cường quyền cũng kiêng ông thần tự do trong mình tau, đồ dịch quỷ làm gì”. Nói là làm, cụ vào bagne ở với anh em tù mấy ngày mà chẳng sợ dịch bệnh gì cả.

Cụ Phan rất giàu tình đồng chí. Hay tin cụ Huỳnh và các “tù quốc sự” bị đày ra đảo, đang ở ngoài làng An Hải, cụ đã lật đật đi hỏi dò cho biết tên từng người. Khi nhóm tù vào khám độ 3 giờ chiều thì nơi cửa sổ nhỏ lưới sắt có người ở ngoài ném vào một viên gạch cùng mảnh giấy văng theo.

Giở ra xem thì ra chính thư cụ Phan do tự tay cụ viết và nhờ anh em tù làm bếp đưa vào. Bức thư có đoạn: “Thoạt nghe tin anh em ra đây, dậm chưn (chân - ĐNCT) van trời một tiếng! Đoạn, tự nghĩ anh em vì quốc dân mà hy sanh đến phải ra đây, chắc là có trăm điều vui mà không có chút gì buồn, đây là trường học thiên nhiên, mùi cay đắng trong ấy, làm trai giữa thế kỷ 20 này, không thể không nếm cho biết”.

Khi Tú tài Dương Trường Đình ra Côn Lôn chưa đầy một năm thì cảm bệnh ho thổ huyết qua đời, cụ Phan thường đến thăm mộ phần, đem gà, rượu cúng và có bài tuyệt cú để viếng: “Thanh sơn bích thủy ủng cô phần,/ Phong vũ thiên nhai khấp cố nhân./ Vị cảm tận tình quyên huyết lệ,/ Hồi đầu quốc thổ chính trầm luân”. Dịch thơ: Non xanh nước biếc nấm mồ côi,/ Mưa gió thương ai một góc trời./ Chưa dám hết lòng tuôn nước mắt,/ Ngoảnh về nước cũ vẫn chơi vơi.

Ở Côn Lôn, hoàn cảnh cùng bị tù đày càng khiến tình bạn, tình đồng chí giữa cụ Phan và cụ Huỳnh Thúc Kháng càng thêm thắm thiết. Cụ Huỳnh cho biết: “Chúng tôi ra đảo hơn 3 tháng, mà chưa được gặp mặt cụ Tây Hồ.

Chỉ thông tin và nói chuyện trên tờ giấy (chúng tôi ở trong khám, còn cụ ở ngoài làng An Hải). Một ngày nọ, tôi mượn cái thẻ bài của một tên tù làm sở rẫy, ra làm ngoài sở rau nọ, mới được gặp cụ đi câu cá gần đó, chúng tôi mới xin phép người cai cùng nhau nói chuyện mấy phút đồng hồ. Tôi thấy cụ rụng 2 cái răng cửa mà cụ thấy tôi tóc bạc nhiều, nên lấy làm lạ (tôi 30 tuổi thì tóc bạc, năm ấy 33 tuổi tóc bạc hết gần nửa).

Hai chúng tôi ngó nhau thì cười. Tôi có bài tuyệt: Khả lân câu thị đáo Côn Lôn,/ Bỉ thử Sâm Thương kỷ hiểu hôn./ Ngã phát thương thương quân xỉ lạc,/ Trương phùng nhất tiếu lưỡng vô ngôn. Dịch thơ: Kiếp tù chung một cõi ven trời,/ Hai ngả Sâm Thương cách mỗi nơi./ Tóc tớ bạc phơ răng bác rụng,/ Gặp nhau không nói ngó nhau cười”.

Người “quốc sự phạm” đầu tiên ở Côn Lôn đã để lại nhiều ấn tượng buồn vui với các bạn tù yêu nước bị đày ra đảo.

VÂN TRÌNH

;
.
.
.
.
.