Phó Đô đốc Hải quân nhân dân Việt Nam Mai Xuân Vĩnh sinh ra và lớn lên bên dòng Linh Giang lịch sử. Nhiều thế hệ họ Mai của ông đã gắn bó với truyền thống đánh giặc giữ làng bảo vệ quê hương.
Ông là chắt nội của Lãnh binh Mai Lượng, người đã cùng đề đốc Lê Trực làm cho thực dân Pháp thất điên bát đảo trong phong trào Cần Vương.
Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh (giữa) và những nhân chứng lịch sử trong một buổi giao lưu tại TP. Hồ Chí Minh năm 2014. Ảnh: H.M.Đ |
Nối gót cha ông lên đường đi cứu nước
Mai Xuân Vĩnh sinh năm 1930, tại làng Thọ Linh (thị xã Ba Đồn, Quảng Bình). Ngày 27-3-1947, giặc Pháp đổ bộ lên cửa biển Nhật Lệ, đánh chiếm Quảng Bình. Ngày 10-4-1947, chúng đánh vào xã Minh Trạch. Chúng tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét và đóng đồn Minh Lệ. Cả xã phải tản cư vào rừng. Đói khát và bệnh tật đã cướp đi người mẹ cùng em gái thân yêu giữa rừng sâu làm anh càng nung nấu quyết tâm giết giặc.
Anh lên huyện Tuyên Hóa, chiến khu của tỉnh Quảng Bình xin vào bộ đội nhưng không được vì chưa đến tuổi. Anh được vào học Trường trung học Phan Bội Châu ở Đạm Thủy, huyện Tuyên Hóa. Tại đây, ngày 1-5-1950, anh được tuyển vào Trung đoàn 18, chỉ huy một tiểu đội thuộc Đại đội 88, Tiểu đoàn 436.
Tiểu đoàn 436 sáp nhập vào Trung đoàn 101 - Trần Cao Vân, Mặt trận Bình Trị Thiên. Ngày ra quân, đơn vị đã đánh thắng địch ở An Gia, diệt gọn đồn Phổ Lại, đập tan phòng tuyến Phú Ốc-Sịa. Ngày 11-3-1951, Trung đoàn 101 chống trận càn Thanh Hương, đánh thiệt hại nặng Binh đoàn Butin của Pháp. Binh đoàn Sockel từ Huế ra tăng viện cũng bị đánh tơi bời phải rút chạy.
Cuối tháng 8-1952, thực dân Pháp mở cuộc hành quân “Châu chấu” đánh vào khu vực Trung đoàn 101 đóng quân. Sau đó chúng mở cuộc hành quân “Cá sấu” có hỏa lực của máy bay và xe bọc thép ồ ạt tấn công. Trung đội ông theo những đồi cát phá vòng vây của địch.
Đêm 24-12-1953, đơn vị hành quân qua quê hương. Đang đợi đò vượt Rào Nan, không ngờ anh em ngồi nghỉ ngay trên ruộng “sác cạn” mà anh đã từng tham gia cày cấy cùng bố mẹ. Tháng 3-1954, tiểu đoàn 436 nhận được thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ thọc sâu đánh thật mạnh ở Lào, phối hợp tốt với chiến dịch Trần Đình. Tiểu đoàn đã cùng đại đội 200, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp quân dân mặt trận Hạ Lào loại khỏi vòng chiến đấu 3.000 quân địch, giải phóng một vùng rộng lớn hàng chục ngàn km2 với 300 ngàn dân.
Trở thành người lính biển
Tháng 6-1961, ông Vĩnh được cử đi đào tạo sĩ quan chỉ huy Hải quân ở Liên Xô. Trường đầu tiên mà ông học là Trường Hải quân Ki-rốp ở thủ đô Ba-cu, nước cộng hòa A-déc-bai-gian. Đây là trường đào tạo Hải quân lớn nhất Liên Xô.
Trung tuần tháng 4-1964, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ vạch kế hoạch ném bom miền Bắc. Ông đến nhận nhiệm vụ trợ lý tác chiến ở khu Tuần phòng 2. Ngày 2-8-1964, tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển Việt Nam và bị tàu phóng lôi của ta đánh đuổi. Ngày 5-8-1964, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã viết nên trang sử hào hùng đánh thắng trận đầu, cùng quân dân cả nước bắn rơi 8 máy bay giặc Mỹ. Ngày 28-4-1965, máy bay Mỹ tập kích tàu của ta ở sông Gianh.
Ông Mai Xuân Vĩnh được giao nhiệm vụ chỉ huy bộ đội hải quân làm một chiếc tàu giả bằng tre nứa ở Quảng Trường (Quảng Trạch) để phục kích đánh lũ cướp trời. 7 giờ sáng ngày 14-7-1965, hai chiếc máy bay AD6 phát hiện được “tàu”, bắn đạn khói chỉ thị mục tiêu gọi đồng bọn tới. Lúc này có 36 nòng pháo phòng không từ 14,5 mm đến cao xạ 37mm của các đơn vị Quân khu 4 và quân chủng Hải quân đang chờ sẵn, đánh vỗ mặt lũ giặc nhà trời. Kết quả bọn địch bị bắn cháy và bị thương 4 chiếc.
Đầu năm 1966, khu Tuần phòng 2 giải thể, ông được điều về phụ trách Tiểu đoàn 8, ra-đa bờ biển. Tiểu đoàn 5 có trạm ra-đa tạo thành những “con mắt thần” rải từ Nghệ An đến Vĩnh Linh. Trạm ra-đa 535 đã phát hiện và chỉ thị mục tiêu cho Đại đội 10 bảo vệ bờ biển bắn chìm 2 tàu biệt kích của ngụy đêm 24-3-1966 tại vùng biển Ròn (Quảng Trạch, Quảng Bình).
Trong năm từ năm 1964 đến 1968, Hải quân Việt Nam đã góp phần cùng quân dân cả nước bắn rơi 3.243 máy bay và bắn chìm 143 tàu biệt kích và khu trục của Mỹ, ngụy. Một hôm, ông đang đến sở chỉ huy bố trí trên đồi cát thì nghe một tiếng nổ to từ phía biển.
Ông ra lệnh cho trạm ra-đa 530 mở máy quan sát thì thấy chiếc khu trục của Mỹ ở bãi thủy lôi không cơ động được. Tàu khu trục của địch có tên là “Oa-sinh-tơn DD843” bị trúng thủy lôi của ta không chìm tại chỗ nhưng phải kéo về Su-bic (Philippines), bị loại khỏi vòng chiến đấu. Một thời gian ngắn sau, tàu khu trục “Giô-dép-Xtơ-rao DDG16” cũng bị thương nặng ở bãi thủy lôi của K4.
Đất nước thống nhất, ông giữ nhiều vị trí trọng trách trong quân chủng Hải quân. Năm 1994, ông được phong quân hàm Phó đô đốc, được giao giữ chức vụ Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Việc tranh chấp biển đảo ngày càng quyết liệt, tàu Trung Quốc nhiều lần xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế biển, thềm lục địa của Việt Nam.
Họ đã nhiều lần đến thả những tấm bia “kỷ niệm” xuống các bãi đá ngầm, thậm chí còn ngang ngược đánh chiếm các đảo chìm, đảo nổi của ta ở Trường Sa và máu của ta đã đổ. Ông đã chỉ đạo lực lượng Hải quân mềm dẻo, nhưng cương quyết, khôn khéo không được để mất một tấc biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Ta phải đấu tranh hàng tháng trời để đánh đuổi họ ra khỏi ngư trường truyền thống.
Tôi được gặp Phó Đô đốc Hải quân Nhân dân Việt Nam Mai Xuân Vĩnh trong dịp kỷ niệm 120 năm ngày mất của Lãnh binh Mai Lượng. Ông nói: “Hải quân nhân dân Việt Nam mãi mãi xứng đáng với Huân chương Sao vàng mà Đảng và Nhà nước trao tặng cùng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. “Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông là không thể tranh cãi. Là lực lượng nòng cốt, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã và sẽ cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc trên biển đảo”.
Khi tuổi đã cao, ông trực tiếp đề nghị với các đồng chí lãnh đạo Đảng và quân đội cho chuyển giao thế hệ để anh em khác phát triển. Có đồng chí lãnh đạo băn khoăn:
- Hiện nay tình hình tranh chấp chủ quyền trên vùng biển của ta đang có nhiều căng thẳng, nhạy cảm, nếu anh nghỉ thì các đồng chí kế cận đã có đủ sức thay thế chủ trì hay chưa?
Không một chút ngần ngại, ông trả lời:
- Mỗi khi giải quyết những việc xảy ra trên biển đảo, đều có các đồng chí trong Bộ Tư lệnh tham dự. Một khi người chỉ huy kết luận vấn đề thì tri thức chung đó, mọi người đều hiểu và nắm vững.
Đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trao quyết định cho ông thôi công tác, chờ nghỉ hưu, ông rất phấn khởi, thoải mái. Ông đề nghị với Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng một số việc cụ thể nhằm nâng cấp trang bị và hoàn thiện Quân chủng Hải quân đáp ứng kịp với yêu cầu của tình hình mới.
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trên thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ông đã lên tiếng trên đài truyền hình Trung ương cực lực phản đối hành động ngang ngược đó.
Trọn cuộc đời đi theo cách mạng, 50 năm phục vụ trong quân đội, về hưu ông vẫn tâm nguyện một điều: “Làm tốt nhiệm vụ của người đảng viên, người công dân; giữ vững và phát huy phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ, truyền thống của Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng”. Ông xứng đáng với dòng máu anh hùng của họ Mai trên đất làng Thọ Linh địa linh nhân kiệt.
HOÀNG MINH ĐỨC