Hiện nay, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh còn lưu giữ một bài thơ hết sức cảm động của Bác Hồ. Đó là bài Chú Thông, toàn văn như sau:
Tết nhất năm này hoãn thịt xôi.
Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi,
Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú.
Chú mang cho ấm, cũng như tôi.
(4-2-48, Hồ Chí Minh)
Bài này, Bác viết vào ngày 4-2-1948 (tức ngày 25 tháng Chạp năm Đinh Hợi), gửi ông Đặng Phúc Thông, Thứ trưởng Bộ Giao thông.
Bài thơ ra đời hơn một năm sau “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946). Đây là giai đoạn còn rất gian khổ, khó khăn của công cuộc chiến đấu. Lực lượng ta thiếu thốn trăm bề, từ lương thực thực phẩm đến quân trang quân dụng. Hiểu thế, ta mới càng thấm thía hơn tấm lòng của Bác.
Hằng ngày, Hồ Chủ tịch vun xới cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi tặng với tấm lòng thương yêu vô hạn miền Nam anh hùng. Ảnh tư liệu |
Mở đầu bài thơ, Người nói rõ: “Tết nhất năm này hoãn thịt xôi”. “Thịt xôi” vốn là những vật phẩm quen thuộc, có tính truyền thống của nhân dân ta trong mỗi khi Tết đến, xuân về. Vậy mà, không quanh co, Bác nói ngay việc “hoãn thịt xôi”. Song, tinh ý sẽ thấy rằng, Bác nói “hoãn” chớ không nói “chẳng”, nói “thôi” càng không nói “không”. Và, cũng chính từ chữ “hoãn” làm cho chúng ta không chỉ cảm thông với sự nghiệp chung mà còn phải nỗ lực, phấn đấu cho công cuộc kháng chiến.
Rõ ràng, với một câu thơ giản dị, chân thành, Bác đã bày tỏ tấm lòng của mình đối với dân, với nước, với cán bộ cấp dưới của mình.
Câu thơ thứ hai là một câu thơ khẳng định một cách chắc nịch sự nghiệp kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta sẽ thắng lợi: “Tết sau thắng lợi sẽ đền bồi”. “Đền bồi” là một từ dùng thật đắc, mà cũng rất chí tình, chí nghĩa. “Đền bồi” có nghĩa sẽ trả, cả về vật chất lẫn tinh thần.
“Đền bồi” là sự đáp trả cho sự hy sinh, cho sự cống hiến, cho sự trả công trả nghĩa... cho những ai biết sống và chiến đấu cho công cuộc giải phóng nước nhà, thoát khỏi ách ngoại xâm.
Sang đến câu ba, câu thơ tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến hai câu đầu, nhưng kỳ thực, nó vẫn nằm trong logic nội tại của cấu trúc bài thơ. Đó vẫn là những khó khăn của những ngày đầu kháng chiến. Hơn ai hết, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, hiểu điều đó một cách sâu sắc và đã trao món quà của mình cho đồng chí của mình:
Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú.
Lại một lần nữa, ta nhận ra tình cảm, sự trân trọng của Bác ở từ “biếu”. Lời lẽ bình dị mà xiết bao cảm động.
Và, liền sau đó, câu thơ thứ tư mới ấm áp ân tình làm sao: “Chú mang cho ấm, cũng như tôi” - Dường như là, qua câu thơ này, Bác đã nói đầy đủ tấm lòng của mình.
Ảnh: ANH DUY |
Bao giờ cũng vậy, câu thứ tư trong thơ tứ tuyệt lúc nào cũng đóng vai trò chủ đạo của bài thơ. Ở đây cũng thế. Câu thơ sau cùng như một vầng dương, tỏa sáng cả toàn bài, xua tan đi những gian khổ, khó khăn tạm thời. Qua đó, Bác muốn truyền hơi ấm của tấm lòng, hơi ấm của tình người sang cho đồng đội, đồng chí.
Bài thơ ra đời vào những ngày cuối đông giữa núi rừng Việt Bắc, chuẩn bị đón xuân mới, xuân Mậu Tý (1948), như bài thơ chúc Tết năm ấy, Người viết:
Năm Hợi đã đi qua,
Năm Tý vừa bước tới.
Gửi lời chúc đồng bào,
Kháng chiến được thắng lợi.
Toàn dân đại đoàn kết,
Cả nước dốc một lòng.
Thống nhất chắc chắn được,
Độc lập quyết thành công.
Do đó, ta càng hiểu hơn quyết tâm của lãnh tụ và tấm lòng yêu nước, thương dân, thương đồng chí của Bác.
HUỲNH VĂN HOA