Trong số rất nhiều câu từ để nói về Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ngô Thị Huệ như “Bông hồng thép”, “Người con nuôi của Bộ trưởng Bộ Công an”, “Mối tình đặc biệt giữa hai người tù”... thì biệt danh “con Sóc nhỏ” là ấn tượng nhất. Nhỏ có thể để chỉ về mặt thân thể, nhưng trí thông minh, tài ứng biến và xoay chuyển tình thế thì ở bà Huệ, tố chất của một con Sóc - “nhanh như Sóc” đều hội tụ, kết tinh đầy đủ. Để hoạt động cách mạng, sống, chiến đấu giữa muôn trùng vây ráp của kẻ thù, tố chất ấy rất cần, thậm chí là yếu tố quyết định sự thành bại.
![]() |
Ngô Thị Huệ trong lần gặp đồng chí Trần Quốc Hoàn - Bộ trưởng Bộ Công an tại Hà Nội. |
Dũng cảm, can trường trong chiến đấu
Bà Ngô Thị Huệ, bí danh Minh Hiệp (sinh ngày 20-12-1942 tại làng Hương Phát, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang) trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Từ những năm 1950, gia đình bà đã là cơ sở nuôi giấu cán bộ cốt cán của phong trào. Sinh ra và lớn lên trong môi trường ấy, bà sớm hun đúc tinh thần đấu tranh cách mạng, ý chí căm thù giặc cao độ. Ngày ấy, dù mới 10 tuổi nhưng bà rất hăng hái trong những nhiệm vụ được giao như rải truyền đơn, canh gác để báo tin hoạt động của địch cho cơ sở.
Những ngày đầu bà đến với phong trào cách mạng ở quê hương, cũng là thời điểm kẻ thù thực hiện chính sách “tố cộng và diệt cộng” rầm rộ nhất. Nhiều chiến sĩ cách mạng sa vào tay giặc, bị tra tấn hết sức dã man, có người bị địch hành hạ đến chết. Cha bà cũng bị địch bắt, bỏ tù và tra tấn, khi đã lâm cảnh mù lòa, chúng mới trả tự do. Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại, ở quê bà có rất nhiều người thoát ly để tập kết ra miền Bắc. Trong vòng 3 năm (từ 1954 -1957), gia đình bà có 5 người thoát ly đi theo cách mạng.
Năm 1959, địch bắt đầu thực hiện chính sách lập ấp chiến lược để dễ bề thi hành Luật 10/59, bà theo gia đình vào khu dồn dân. Trong thời gian này, được sự chỉ đạo của cấp trên, bà tương kế tựu kế nghiên cứu tình hình và quy luật đi lại của những đối tượng chức sắc và ác ôn ở địa phương. Nhận chỉ thị của ông Ba Thế, Đội trưởng Đội công tác Huyện ủy Hòa Vang, bà bố trí để những trinh sát của đội thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt các đối tượng ác ôn là ấp trưởng, xã trưởng và liên gia trưởng, làm cho địch hết sức hoang mang. Mặt khác, bà cũng móc nối những người có tấm lòng với cách mạng ở trong hàng ngũ địch, từ đó phát hiện ra vị trí địch cài mìn, lựu đạn giúp Đội công tác vào ra ấp chiến lược an toàn tuyệt đối để vận động quần chúng.
Đầu năm 1960, trong một lần nhận nhiệm vụ trèo lên cây cốc cao để treo cờ của Mặt trận, bà bị địch phát hiện và bắt giữ. Tại nhà lao Hiếu Đức, dù bị hành hạ đủ kiểu nhưng không khai thác được gì, địch bèn giải bà đến nhà lao Hội An (Quảng Nam) để “nếm trải” những kiểu tra tấn dã man. Từ dùng điện để quay, đến dìm trong thùng phuy chứa nước xà phòng, rồi dùng kìm để kéo ngực, kẹp tay… hòng buộc bà phải khai ra những người trong Đội công tác và các cơ sở cách mạng ở địa phương nhưng bất lực. Địch càng như muốn điên lên trước sự kiên trung của người con gái chưa đến tuổi 20. Sau hơn 6 tháng bị giam cầm, tra tấn, bà ngã quỵ, liệt toàn thân. Thấy vậy, địch thả bà ra. Về với gia đình, bà được người thân chăm sóc, các cơ sở của ta đóng góp tiền bạc chạy chữa…
![]() |
Nữ điệp báo Ngô Thị Huệ trong lần giáp mặt với kẻ thù khi đem tài liệu vào cho đồng chí Nguyễn Cam, Phó Ban An ninh Quảng Đà lúc này trong vai cố vấn cho Trần Đăng Sơn, trùm Quốc dân Đảng tại trụ sở ở số 30 Nguyễn Du. |
Từ Đội công tác Đà Nẵng, bà chuyển qua làm điệp viên của Ban An ninh Quảng Đà, lấy bí danh Minh Hiệp, vừa trực tiếp vào ra nội thành móc nối, khai thác tin tức; vừa đào tạo mạng lưới điệp viên với hàng chục cơ sở, trong đó có nhiều cơ sở trong hàng ngũ địch. Trước thềm Xuân 1968, chuẩn bị cho Tổng tấn công Mậu Thân, nhiều lãnh đạo của Đặc Khu ủy và Ban An ninh Quảng Đà vào nội thành Đà Nẵng nắm tình hình, chỉ đạo chiến dịch. Trưởng ban Võ Bá Huân giao nhiệm vụ cho bà đem tài liệu vào cho ông Nguyễn Cam, Phó ban An ninh Quảng Đà lúc này trong vai cố vấn cho Trần Đăng Sơn, trùm quốc dân đảng tại trụ sở ở số 30 Nguyễn Du.
Kỷ niệm mà bà không bao giờ quên, đó là trên đường từ căn cứ đến trụ sở 30 Nguyễn Du, khi đi qua đoạn đường Ông Ích Khiêm, bà gặp phải tình huống hết sức bất ngờ khi phát hiện hai chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, trói lại và giải về Ty công an. Đi song song với địch, dù rất xót xa khi phải chứng kiến cảnh đồng đội bị dẫn giải, bà vẫn cố nén lại cảm xúc như không có chuyện gì xảy ra để khỏi bị nghi ngờ. Đến trụ sở quốc dân đảng, tên lính gác không cho vào, bà vừa dùng mỹ nhân kế, vừa đút lót tiền mới có thể lọt vào trong. Gặp ông Nguyễn Cam, bà mời thuốc lá và trao điếu thuốc có tài liệu cho thủ trưởng. Ông khẽ truyền miệng lệnh cho bà và đưa tờ báo với chỉ thị được viết bằng mực hóa học trên đó. Ra về, bà xé tờ báo phía trên cho rách, mua kẹo bánh gói vào để địch không nghi ngờ. Bà đến nhà cơ sở khác thay quần áo, tìm ông Hồ Nghinh, Bí thư Đặc khu ủy báo cáo tình hình, gặp mạng lưới điệp báo giao nhiệm vụ, sau đó mới về lại Gò Nổi.
Đầu năm 1969, trong một lần đưa cán bộ đi về, bị địch ném bom, không may bà bị mảnh bom găm vào đầu, do vết thương quá nặng, bà được tổ chức đưa ra Bắc chữa trị. Hai anh trai hy sinh, cha cũng mất vì vết thương tái phát, nỗi đau tinh thần cùng di chứng mảnh bom hành hạ làm bà liên tục lên cơn động kinh. Một lần, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn đến Bệnh viện E thăm, đã xúc động nhận bà làm con nuôi. Từ năm 1971, bà được điều động về công tác tại Bộ Công an cho đến năm 1975 thì trở về Đà Nẵng.
![]() |
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ngô Thị Huệ (bên phải) cùng đồng đội trong một lần gặp mặt tại nhà riêng. Ảnh: LÊ HÙNG |
Bình dị giữa đời thường
Nữ Anh hùng Ngô Thị Huệ hiện đã bước qua tuổi 80 và đang sống cùng người chồng, người đồng đội trong căn nhà nhỏ ở phường Thạch Thang (quận Hải Châu). Cả một thời tuổi trẻ, bà tận hiến đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Đối mặt với kẻ thù, bà là một nữ anh hùng, không ngại khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, thế nhưng đời thường của bà lại đầy sóng gió và xen lẫn nhiều kỷ niệm buồn vui…
Những ngày bị bắt giam và tra tấn tại nhà lao Hiếu Đức, bà quen một nữ tù, cũng là nữ cách mạng kiên trung. Cảm mến tấm lòng của nhau, hai người trở nên thân thiết như chị em ruột thịt. Một thời gian sau, bà được chuyển đến nhà lao Hội An nên hai chị em bặt tin, cho đến khi ra Hà Nội điều trị vết thương do mảnh bom để lại, như sự sắp đặt sẵn của số phận, hai chị em gặp lại nhau khi cùng điều trị trên giường bệnh. Thời gian này, nữ bạn tù của bà đã có người yêu, là ông Trần Viết Trí (SN 1936). Ông Trí cũng tham gia hoạt động cách mạng từ nhỏ, đến thời điểm đó, ông được điều chuyển về Ban thống nhất ở Hà Nội, sau làm Giám đốc Bệnh viện E22, nên thường xuyên đến chăm sóc người yêu. Biết hoàn cảnh của bà Huệ, ông Trí cảm thông nên thường xuyên động viên, chăm sóc.
Ngày ông Trí tổ chức đám cưới với người yêu, bà đến dự và chúc phúc. Sau này, khi vợ chồng bạn có hai cậu con trai, mỗi lần có dịp, bà cũng ghé qua, thăm hỏi đỡ đần. Sau giải phóng, ông Trần Viết Trí vào Đà Nẵng làm việc tại Ban Tổ chức Thành ủy, cũng thời điểm này, ông đón nhận nỗi đau đớn tột cùng khi vợ đột ngột qua đời. Thấy hai con của ông Trí mới lên 9 và lên 10, không bàn tay người mẹ chăm sóc, bà tự nguyện đỡ đần. Vượt qua những rào cản gia đình và xã hội, ông bà chính thức nên nghĩa vợ chồng. Tuy nhiên, do những lần bị tra tấn dã man của kẻ thù, bà đã mất đi khả năng sinh nở. Không còn thiên chức của một người mẹ, bà dồn tất cả tình yêu cho hai người con riêng của chồng... Đến nay, cả hai người con đã trưởng thành, mỗi người sinh cho ông bà hai cháu nội xinh xắn, để rồi mỗi dịp cuối tuần, căn nhà nhỏ của hai vợ chồng lại ngập tràn tiếng cười trẻ thơ.
Trong suốt quá trình tham gia cách mạng, bà Ngô Thị Huệ tham gia 4 trận đánh lớn, tiêu diệt 8 tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân và phong trào cách mạng. Bà xây dựng 27 cơ sở, trong đó có 4 cơ sở làm việc trong hàng ngũ địch, 2 cơ sở là đồng bào Công giáo và 13 cơ sở hoạt động ở nội thành. Với những đóng góp đó, bà Ngô Thị Huệ được tặng thưởng nhiều huân, huy chương. Đặc biệt, ngày 29-8-1985, bà vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. |
LÊ HÙNG