Trong suốt 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng dân quân tự vệ thành phố Đà Nẵng trải qua các thời kỳ lịch sử đầy biến động và cam go, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần giải phóng quê hương và xây dựng thành phố không ngừng phát triển ngày càng giàu mạnh, văn minh. Trong đó lực lượng tự vệ - biệt động Đà Nẵng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc.
![]() |
Lực lượng tự vệ Tổng Công ty CP Dệt may Hòa Thọ huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cơ quan, địa bàn trong mọi tình huống. Ảnh: HỒNG HẠNH |
Sau khi ra đời năm 1930, Đảng bộ Đà Nẵng chọn lựa một số thanh niên khỏe mạnh, biết võ thuật, có tinh thần dũng cảm, mưu trí tham gia công tác bảo vệ, hoạt động theo phương thức bí mật. Đến năm 1941, Đảng bộ xây dựng một số tiểu, tổ tự vệ, du kích mật ở các địa bàn nội thị làm nhiệm vụ hỗ trợ nhân dân đấu tranh và chuẩn bị hình thành lực lượng vũ trang Đà Nẵng.
Năm 1945, lực lượng tự vệ đã phát triển lên 1.400 người, gồm nhiều thành phần như: công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, công chức, binh lính trong bộ máy chính quyền Pháp - Nhật… biên chế thành 4 đại đội, 3 trung đội và 8 tiểu đội với trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ. Lực lượng tự vệ góp phần cùng các lực lượng quần chúng nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân vào ngày 26-8-1945, đóng góp những thành tích xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ trên địa bàn Đà Nẵng.
Trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng này gọi là “đặc vụ quân sự, tự vệ chiến đấu, tự vệ mật”, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước gọi là “Tự vệ - biệt động”. Đóng vai trò chính là lực lượng nòng cốt tiến hành chiến tranh nhân dân trong lòng địch, tự vệ - biệt động đã thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ: vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng, xây dựng cơ sở (có đơn tuyến, nội tuyến, tổ, đội), nắm tình hình địch, chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, tạo bàn đạp, hành lang cho các đơn vị bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực mở các trận đánh lớn và chiến dịch tiến công Đà Nẵng.
Chấp hành nhiệm vụ được giao, trong suốt quá trình kháng chiến dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ Đà Nẵng, tự vệ - biệt động bám chắc địa bàn, liên tục sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị tiến công các cơ quan, đồn bót của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh, lập nhiều chiến công xuất sắc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc vụ quân sự và tự vệ đã đánh những trận nổi tiếng như: bót gác ngã Năm, Đài Thiên văn, khu Đông, kho xăng Nại Hiên, cầu Hòa Phú, ga Đà Nẵng, đồn Mỹ Khê, An Hải..., gắn liền với những cái tên: Trung đội đặc vụ quân sự, tự vệ khu Đông sông Đà; các đồng chí Lê Tiền, Nguyễn Văn Lang, Phạm Thị Biên, Huấn, Tâm, Luận, Nhu...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng tự vệ - biệt động phát triển mạnh mẽ, đều khắp và đánh nhiều trận xuất sắc ở cảng Sông Hàn, Quân vụ thị trấn, khối phố Thanh Khê, Xương Bình, kho xăng Nại Hiên, kho bom đạn Phước Lý, sân bay Đà Nẵng, Chi cảnh sát quận Đông Giang, chốt điểm Cống Tiềm, bót gác ngã ba Huế, Tòa thị chính, khách sạn đường Lê Đình Dương, các cư xá sĩ quan Mỹ - ngụy, Nam Triều Tiên, Philippines ở đường Pasteur, Yên Bái, Phan Châu Trinh… Những đơn vị nổi tiếng như: Đại đội đặc công - biệt động Lê Độ, các đội tự vệ - biệt động quận Nhất, quận Nhì, quận Ba gắn với tên tuổi các anh hùng, dũng sĩ: Nguyễn Hữu Đức, Hà Văn Trí, Đặng Đình Vân, Lê Độ, Trần Thị Chiến, Nguyễn Văn Nhàn, Hồ Thị Lý, Nguyễn Thị Tám, Võ Văn Cả, Phan Thị Mùa…
Bên cạnh việc tiêu diệt sinh lực địch, lực lượng tự vệ - biệt động Đà Nẵng còn là nòng cốt vận động, tuyên truyền nhân dân tham gia hoạt động cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị trong các đoàn thể quần chúng, tạo cơ sở chính trị vững chắc của thế trận lòng dân, điển hình như các căn cứ lõm Bắc Mỹ An, xóm Mốc, Tây An, Hồng Phước, khu đông sông Đà, Sơn Trà, Thanh Khê, Hòa Cường, Thạc Gián, Xuân Hà.
Đồng thời xây dựng các căn cứ bàn đạp trung gian ở các xã thuộc huyện Hòa Vang và các căn cứ bàn đạp phía sau ở các xã của Điện Bàn, hình thành các tuyến hành lang cơ động từ Thăng Bình ra đến Đà Nẵng cùng với các đầu mối, trạm liên lạc... tạo thành hệ thống kết nối liên hoàn vững chắc đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh chiến tranh nhân dân trong lòng địch diễn ra mạnh mẽ, liên tục, hiệu quả. Bên cạnh đó còn xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, tài liệu, đưa đón cán bộ, chiến sĩ biệt động vào ra Đà Nẵng bằng các phương tiện vận tải quân sự một cách dễ dàng.
Lực lượng tự vệ - biệt động đã kết hợp chặt chẽ, linh hoạt các phương châm đấu tranh, vận dụng sáng tạo, phong phú, đa dạng các hình thức chiến thuật, hỗ trợ đắc lực cho các lực lượng chính trị quần chúng lập nhiều chiến công và thành tích xuất sắc, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước năm 1975.
50 năm sau giải phóng, lực lượng tự vệ thành phố Đà Nẵng được xây dựng phát triển đều khắp trong các cơ quan, doanh nghiệp, là lực lượng nòng cốt tích cực phối hợp với các lực lượng bảo vệ an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội địa bàn, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
HỒNG HẠNH
(Trích tư liệu sách Lịch sử lực lượng vũ trang thành phố Đà Nẵng)