95 năm thành lập Đảng bộ thành phố Đà Nẵng - Bài 1: Những năm tháng gian lao mà anh dũng

Nhìn lại chặng đường lịch sử 95 năm thành lập Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, chúng ta tự hào về thành phố trung dũng, kiên cường trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và luôn sáng tạo, đột phá trong công cuộc xây dựng, phát triển. Hướng về tương lai, với khát vọng vươn xa, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng quyết tâm bứt phá, sẵn sàng hội nhập và phát triển cùng đất nước.

Đại tướng Chu Huy Mân
Đại tướng Chu Huy Mân (thứ 4, bên trái sang) chỉ huy các mũi tiến công vào thành phố Đà Nẵng. Ảnh tư liệu: TTXVN

Những năm đầu thế kỷ XX, Quảng Nam, Đà Nẵng là mảnh đất sục sôi các phong trào yêu nước và cách mạng, dẫn đến sự sớm ra đời của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Những tên đất, tên người quả cảm, bất khuất đi vào lịch sử, như một sợi chỉ đỏ dọc dài theo hành trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và phát triển của thành phố.

Hai địa chỉ đỏ

Trường Cự Tùng và giếng Bộng là những cái nôi đầu tiên của cách mạng ở Đà Nẵng, vẫn được các thế hệ ở Đà Nẵng giữ gìn. Tháng 4-1927, Tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên của tỉnh Quảng Nam được thành lập, lấy Trường Cự Tùng làm nơi sinh hoạt, liên lạc. Đến tháng 9-1927, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Đà Nẵng được thành lập, do đồng chí Đỗ Quang làm Bí thư.

Năm 1928, cuốn “Đường Kách Mệnh” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên tại Quảng Nam - Đà Nẵng được đồng chí Đỗ Quang chỉ đạo bí mật in tại nhà bà Phán Thạnh (xóm giếng Bộng) để làm tài liệu tuyên truyền, vận động nhân dân, phát triển lực lượng, vạch rõ con đường của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, công nông là gốc của cách mạng, phát hành đến trong tỉnh và nhiều nơi khác.

Theo hồi ký của ông Đỗ Quỳ (em trai ông Đỗ Quang, được kết nạp Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng năm 1927), sau khi chọn địa điểm nhà bà Phán Thạnh làm cơ sở in ấn, ông Quỳ và ông Lê Quang Sung được ông Đỗ Quang giao nhiệm vụ tổ chức in cuốn “Đường kách mệnh” của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

“Giấy in bấy giờ là loại giấy bổi của Tây, chúng tôi rọc đôi ra in rất gọn và cuộn lại chuyển đi cũng dễ. Máy móc không có, ronéo cũng không, chúng tôi in bằng đông sương (dùng bút mực viết chữ ngược lên đông sương rồi dập giấy lên in thành văn bản) vừa rẻ tiền vừa nhanh chóng phi tang khi mật thám ập đến”, trích hồi ký (tr. 253). Còn dấu vết Trường Cự Tùng bây giờ tại 52 Trần Bình Trọng, ngôi nhà cổ lợp ngói âm dương. Địa chỉ giếng Bộng nay nằm trong khuôn viên Trường Mầm non Ánh Hồng, đường Trưng Nữ Vương.

“Một ngày bằng 20 năm”

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, Đảng bộ và nhân dân thành phố nhanh chóng chuyển hướng tổ chức và hoạt động để bước vào cuộc chiến đấu mới. Một bộ phận cơ quan Thành ủy phải tập trung thu dọn tài liệu, điện đài chuyển về căn cứ; một số đồng chí được phân công bám trụ địa bàn, cùng với nhân dân đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, bảo vệ lực lượng cách mạng. Đây là thời kỳ đầy cam go, thử thách của cách mạng, từ đấu tranh vũ trang trên đà thắng lợi phải chuyển sang đấu tranh chính trị, giữ thế hợp pháp trên cơ sở hiệp định Giơ-ne-vơ.

Tháng 1-1959, Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ra đời như một luồng gió mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của nhân dân miền Nam. Sau khi học tập nghị quyết, tổ chức Đảng và phong trào bên trong thành phố từng bước được khôi phục và phát triển, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Con đường cách mạng miền Nam được xác định: Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền của nhân dân, là nguồn gốc sức mạnh Đảng bộ thành phố suốt thời gian này, góp phần đánh thắng “chiến tranh cục bộ” (1965-1968), chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1972), làm nên cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và đại thắng mùa Xuân năm 1975. Nhân dân một lòng trung kiên với Đảng, không sợ cảnh tù đày tra tấn, hy sinh tính mạng và gia đình, chuyên chở và cất giấu vũ khí, đùm bọc, che chở, nuôi nấng các đồng chí lãnh đạo và các lực lượng cách mạng hoạt động ngày đêm ngay giữa lòng địch. 

Ở nội thành, ông Bùi Hồng Khanh, trước khi nghỉ hưu là Phó Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, nguyên chiến sĩ quân y Tiểu đoàn 1 R20, Chủ nhiệm Quân y Trung đoàn 38, nhớ lại: tôi mới phơi áo quần, chưa kịp khô thì được cấp trên gọi lên hỏi “cậu có con, cháu chi ở Đà Nẵng không” rồi được giao chỉ huy biệt động cánh trung, quận Nhất, Đà Nẵng, gồm các nhánh K20A, K20B, K10, K15, đội nội thành 1, 2…

Năm 1973, ông sang làm Chỉ huy trưởng biệt động Quận 4. Ông Khanh về quê ở làng Giếng La, xã Điện Thọ, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam, tìm được 5 đứa em bà con khoảng 12-16 tuổi huấn luyện, giao nhiệm vụ. Bắt đầu những tháng ngày vừa làm vừa huấn luyện, móc nối các bên để tìm kiếm thông tin, cùng ăn cùng ngủ với địch để đánh địch. Tự lên kế hoạch, tự tìm mục tiêu, rồi báo cáo cấp trên, thấy chưa phù hợp thì sửa kế hoạch, được lệnh cấp trên mới ra lệnh đánh. Chính ông và những anh chị em trong đội luôn sống dưới một vỏ bọc nào đó, khi có một bộ phận chuyên làm căn cước giả để hoạt động. Vợ ông, bà Lê Thị Ngọc Lan, hoạt động trong phong trào của Tổng đoàn học sinh Đà Nẵng, sau khi rời nhà lao trở về năm 1973, trở thành một đường dây trong nhóm liên lạc của ông Khanh.

Ngày 29-3-1975, khi ông Khanh từ xã Điện Hòa về Đà Nẵng, lần đầu tiên bà gặp người chỉ huy của mình. Ông nhớ lại lịch sử bằng câu “một ngày bằng 20 năm”: Ngày 28-3-1975, Mặt trận Quảng Đà thành lập Ban chỉ huy tiền phương, giao Trung tướng Phan Hoan, Tư lệnh Mặt trận 4 làm chỉ huy trưởng, giao cho các Tiểu đoàn 471, 489, 491, Đặc công biệt động nhiệm vụ: cùng nhân dân nổi dậy cướp chính quyền, chiếm các cơ quan quan trọng như cầu, bến bãi, kho tàng, không cho địch đánh phá trước khi rút chạy; đón bộ đội chủ lực, hướng dẫn hoặc đưa bộ đội đến những nơi địch còn và chiếm những khu vực quan trọng như tòa thị chính, đài phát thanh; cùng nhân dân gìn giữ an ninh trật tự.

Tối 28-3-1975, các ông đón đoàn Bộ Tư lệnh tiền phương mặt trận từ núi xuống, đóng tại nhà dân ở thôn Đông Quang, xã Điện Hòa. Trung tướng Phan Hoan giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Ngọc Phỉ làm Phó Tham mưu trưởng, ông Bùi Hồng Khanh làm cán bộ tác chiến Ban 12, chỉ huy lực lượng Tự vệ - Biệt động.

Đến 2 giờ sáng ngày 29-3, các ông  triệu tập 5 người băng đồng Điện Tiến xuống đường số 1, đón được một chiếc xe jeep của sinh viên Huế, thẳng hướng ra Đà Nẵng. Đến ngã ba Huế, dân tụ tập rất đông, xe chạy về ngã ba Cai Lang thì không đi được nữa. Các ông đi bộ về số nhà 30 Nguyễn Thị Giang (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), 11 giờ lập cơ quan chiến đấu. Song trong thành phố địch đã đầu hàng. Ngày hôm sau các ông vô Ủy ban quân quản.

Ông Trịnh Trọng Sở, Phó ban công tác mặt trận khu dân cư 28 phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, nhớ lại: chiều 27-3, tôi đang đóng quân ở La Thọ, huyện Điện Bàn, thì được sung vào Tiểu đoàn 4, Mặt trận 4 vừa thành lập ngày hôm đó để đánh vào Tòa thị chính Đà Nẵng. Tối 28-3 hành quân xuống đường số 1, đến nơi thì đã 4 giờ sáng ngày 29, liền hành quân về sân bay Nước Mặn. Lúc đến đây thì địch đã bỏ vị trí, tàu hải quân Mỹ ở ngoài khơi trưa đó lui ra. Các đơn vị chủ lực của Mặt trận 4 lúc đó mới vào tiếp quản các vị trí trọng yếu.

Thành phố được giải phóng. Đúng như lời trong bài hát “Đà Nẵng quê ta giải phóng rồi” của Nguyễn Đức Toàn, “bao nhiêu mong ước mới có một ngày vui/ Đà Nẵng hôm nay giải phóng rồi”.

(Một số đoạn trong bài trích trong cuốn Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1975) - NXB Chính trị Quốc gia, 2006).

HOÀNG NHUNG - TRỌNG HUY

;
;
.
.
.
.