95 năm thành lập Đảng bộ thành phố Đà Nẵng - Kỳ 1: Mốc son chói lọi trong lịch sử Đảng bộ thành phố

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), gần hai tháng sau, ngày 28-3-1930, tại địa điểm Cây Thông Một (nay thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (bao gồm Quảng Nam và Đà Nẵng) được thành lập, đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố đã kiên cường đấu tranh, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và thành phố.

Bảo tàng Đà Nẵng ngày nay (trước đây là Tòa thị chính). Nơi đây, ngày 26-8-1945, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên nóc Tòa thị chính. Ảnh: TRỌNG HUY
Bảo tàng Đà Nẵng ngày nay (trước đây là Tòa thị chính). Nơi đây, ngày 26-8-1945, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên nóc Tòa thị chính. Ảnh: TRỌNG HUY

Ngày 28-3-1930, Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ Quảng Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam ra thông cáo về việc thành lập Đảng bộ và công bố từ nay chỉ có một Đảng Cộng sản duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đường cho công, nông, binh, nhân dân lao động bị áp bức đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tỉnh ủy lâm thời gồm: Phan Văn Định (bí thư), Phạm Thâm, Nguyễn Thái.

Về sau, Xứ ủy tăng cường thêm 3 cán bộ tham gia vào Tỉnh ủy, đồng chí Phan Văn Định đề cử đồng chí Phạm Thâm làm bí thư thay mình vì đồng chí Phạm Thâm có điều kiện đi lại hoạt động ở nông thôn sâu sát phong trào hơn.

Ở Đà Nẵng, Thị ủy lâm thời do Xứ ủy lập ra trước đây vẫn còn giữ nguyên nhưng phát triển thêm nhiều đảng viên mới, lập thêm một chi bộ mới 5 người do Nguyễn Sơn Trà làm bí thư. Thị ủy đã tổ chức cơ sở công hội trong hỏa xa, nhà đèn, bưu điện. Tổng số đảng viên trong tỉnh vào cuối năm 1930 lên đến 80 người. Ngày 28-3-1930, ngày chính thức thành lập Đảng bộ tỉnh đánh dấu cột mốc lịch sử của nhân dân Quảng Nam và Đà Nẵng bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh dân tộc, dân chủ theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi Đảng bộ được thành lập, cao trào cách mạng 1930-1931 ở Quảng Nam đã nổ ra cùng nhịp với phong trào chung của cả nước. Vào giữa năm 1935, phong trào lại gặp khó khăn nhưng tiền đề cách mạng đã được xây dựng trong quá trình hình thành Đảng bộ, phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935 đã tạo cơ sở cho nhân dân trong tỉnh bước vào giai đoạn đấu tranh dân sinh dân chủ trong những năm 1936-1939. Thắng lợi to lớn của thời kỳ 1936 - 1939 đã tạo ra lực lượng mới và trận địa mới cho cao trào cứu nước rộng lớn của những năm 1939 - 1945.

Những ngày đầu tháng 8-1945, bộ máy thống trị tay sai của Nhật từ phủ, huyện, đến cơ sở đã bị tê liệt, quần chúng đã được tập hợp dưới ngọn cờ  hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa. Trước tình thế đó, Tỉnh ủy triệu tập cuộc họp khẩn cấp vào ngày 12 và 13-8-1945, bàn kế hoạch chớp thời cơ khởi nghĩa. Chỉ trong một ngày 18-8, các huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Đại Lộc giành được chính quyền phủ, huyện lỵ.

Tỉnh Quảng Nam căn bản hoàn thành việc cướp chính quyền ở tỉnh lỵ và hầu hết các phủ, huyện. Ở Đà Nẵng, tối ngày 16-8-1945, Thành bộ Việt Minh thành Thái Phiên họp, bầu ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố gồm đồng chí Lê Văn Hiến - chủ tịch, Huỳnh Ngọc Huệ, Nguyễn Trác, Lê Văn Quý, Nguyễn Thị Phi và một số đồng chí phụ trách các ngành... Ngày 22-8-1945, ở xã Mỹ Khê (khu Đông), tự vệ và nhân dân giành chính quyền, tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã.

Ngày 22 và 23-8, các xã Hà Khê, Thanh Khê, An Khê, Thuận An, Liên Trì... giành chính quyền cấp xã. Tối 25-8, đồng chí Lê Văn Hiến vừa về đến Đà Nẵng, Ủy ban khởi nghĩa thành đang họp liền quyết định phát lệnh khởi nghĩa toàn thành phố vào sáng ngày 26-8. Đúng 8 giờ sáng ngày 26-8, tiếng còi vừa vang lên tất cả lực lượng tự vệ, cơ sở cách mạng và cán bộ đã bố trí phụ trách từng mục tiêu đã định, đồng loạt nổi dậy cướp chính quyền.

Tại Tòa thị chính trước cuộc mittinh lớn, đồng chí Lê Văn Hiến thay mặt Ủy ban nhân dân cách mạng thành Thái Phiên tuyên bố chính quyền thuộc về tay nhân dân công bố 10 chính sách của Việt Minh và nhận hồ sơ, ấn tín do tên thị trưởng Nguyễn Khoa Phong giao nộp. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên cột cờ Tòa thị chính Đà Nẵng. Sáng 28-8, một cuộc mít tinh lớn ở sân vận động Chi Lăng được tổ chức mừng thắng lợi. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành Thái Phiên do Lê Văn Hiến làm chủ tịch làm lễ ra mắt trước hai vạn nhân dân thành phố. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Nam đã thành công rực rỡ. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh đã giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn. Thắng lợi khởi nghĩa ở Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong những tỉnh khởi nghĩa sớm nhất thắng lợi trọn vẹn, góp phần hỗ trợ, thúc đẩy Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 trên toàn quốc.

Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tháng 9-1945 thực dân Pháp núp dưới bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam Bộ, âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Ngày 20-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

Trong 4 năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng bộ và nhân dân tỉnh không tiếc xương máu, của cải đã chiến đấu ngoan cường bẻ gãy các đợt tiến công của địch, góp phần làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp. Khi chiến trường đã hình thành hai vùng tạm bị chiếm và vùng tự do, Đảng bộ cùng một lúc vừa phát động phong trào nhân dân du kích chiến tranh đánh địch ở vùng bị chiếm, vừa lãnh đạo xây dựng vùng tự do trở thành căn cứ địa cách mạng của cuộc kháng chiến. Vận dụng đường lối chiến tranh toàn dân toàn diện trường kỳ tự lực cánh sinh của Đảng, Đảng bộ đã khơi dậy truyền thống yêu nước và lòng căm thù của nhân dân đối với thực dân Pháp, đã tạo thành phong trào hành động cách mạng của nhân dân.

Bước sang giai đoạn 1951-1954, nhờ những đường lối, chủ trương sáng suốt của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy, trực tiếp là sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng không những từng bước củng cố, giữ vững vùng tự do mà còn phát triển phong trào du kích chiến tranh ở khắp nơi, góp phần đánh bại âm mưu của kẻ thù. Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi, thực dân Pháp thất bại, phải đầu hàng. Sau hơn ba ngàn ngày, cùng với quân dân cả nước, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã anh dũng chiến đấu, không quản ngại mọi hy sinh, gian khổ để cuối cùng buộc thực dân Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.

Những thành quả to lớn của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đạt được bắt nguồn từ đường lối sáng suốt của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo kịp thời của Liên khu ủy và sự vận dụng năng động sáng tạo của Đảng bộ tỉnh. Trong suốt chín năm kháng chiến lâu dài, gian khổ, không những coi trọng công tác xây dựng Đảng, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phù hợp, Đảng bộ còn khơi dậy được truyền thống yêu nước, biết đoàn kết tất cả các tầng lớp trong Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông.

Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng trực tiếp lãnh đạo toàn diện trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố vùng tự do, hỗ trợ phong trào du kích chiến tranh và phong trào đấu tranh chính trị ở vùng giáp ranh, vùng tạm chiếm thành sức mạnh tổng hợp, góp phần cùng quân dân cả nước đập tan những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.

TRỌNG HUY
(Lược trích theo Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1975),
NXB Sự thật)

;
;
.
.
.
.