95 năm thành lập Đảng bộ thành phố Đà Nẵng - Kỳ 2: Giải phóng thành phố Đà Nẵng

Đánh bại âm mưu chiến lược của Mỹ

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nhưng đế quốc Mỹ âm mưu xâm lược nước ta từ lâu, nhân cơ hội này Mỹ quyết định hất cẳng Pháp trực tiếp xâm lược Việt Nam.

Các đồng chí Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà thảo công điện gửi đồng chí Trần Hưng Thừa kế hoạch tiến công giải phóng Đà Nẵng ngày 29- 3-1975. (Ảnh tư liệu)
Các đồng chí Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà thảo công điện gửi đồng chí Trần Hưng Thừa kế hoạch tiến công giải phóng Đà Nẵng ngày 29- 3-1975. (Ảnh tư liệu)

Bước vào cuộc chiến đấu mới, với vị trí chiến lược trọng yếu của chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, Mỹ - Diệm ra sức xây dựng Đà Nẵng thành căn cứ liên hợp hải - lục - không quân vừa làm lá chắn bảo vệ miền Nam, vừa làm bàn đạp tiến công xâm chiếm miền Bắc. Hơn sáu năm đấu tranh chống các thủ đoạn phá hoại Hiệp định Genève, chia cắt đất nước của Mỹ - Diệm, là giai đoạn mang tính chất bước ngoặt của phong trào cách mạng trong tỉnh.

Trong chống chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” của Mỹ - Diệm, nhiều đảng viên, cán bộ trụ bám chịu nhiều hy sinh tổn thất trước những thủ đoạn đánh phá của địch. Sự lăn lộn của cán bộ bám cơ sở trong lúc phong trào gặp nhiều khó khăn càng củng cố lòng tin của dân đối với Đảng. Giữ vững và từng bước xây dựng miền núi thành căn cứ địa cách mạng là một thành công lớn của Đảng bộ. Miền núi trở thành chỗ dựa của cán bộ, đảng viên và phong trào cách mạng trong tỉnh trong những năm phong trào ở đồng bằng gặp nhiều khó khăn.

Khi có Nghị quyết 15 (Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1959 họp tại Thủ đô Hà Nội ra Nghị quyết 15), nhờ có căn cứ miền núi làm chỗ dựa, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển nhanh từ thế bị động đối phó, ta chuyển sang thế tiến công địch. Kết quả trên đã tạo tiền đề để phong trào cách mạng Quảng Nam - Đà Nẵng phát triển mạnh trong giai đoạn sau.

Phong trào Đồng Khởi năm 1960 của nhân dân miền Nam đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm tới chỗ khủng hoảng nghiêm trọng... Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định “Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ-Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp của nó đã bắt đầu” và quyết định “đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị”.

Vận dụng thực hiện phương châm của Trung ương vào chiến trường Liên Khu 5, Liên Khu ủy Khu 5 đề ra, đối với miền núi đấu tranh vũ trang là chủ yếu, vùng đồng bằng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, vùng đô thị đấu tranh chính trị là chủ yếu. Cuối năm 1962, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức hội nghị cán bộ tại Nà Cau (Tiên Phước) để rút kinh nghiệm hoạt động mở ra làm chủ nông thôn. Chấp hành Nghị quyết của Khu ủy 5, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng cuối năm 1962, quyết định chia Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai tỉnh mới: Quảng Nam và Quảng Đà để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo chiến tranh trong tình hình mới.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Đà tổ chức vào tháng 1-1963, quán triệt chủ trương chung về mở ra giành quyền làm chủ nông thôn, thực hiện phương châm và quyết định những giải pháp cụ thể nhằm đưa phong trào của thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An phục hồi, phát triển lên nhanh. Từ khi có Nghị quyết 15, với phương châm đấu tranh là kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược của 3 mũi giáp công, phong trào cách mạng trong tỉnh từ chỗ khó khăn, tổn thất, đã từng bước khắc phục chuyển lên đến đồng khởi giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, chuyển phong trào thành phố lên mạnh mẽ.

Từ những năm 1961 - 1963, đấu tranh chính trị ở thành phố và đấu tranh vũ trang ở nông thôn đều có bước phát triển, nhưng chưa đều. Sang năm 1964 và Xuân 1965, khu và tỉnh quyết định nhanh chóng giải phóng nông thôn đồng bằng trước nhất là vùng đông của các huyện trong tỉnh (nơi địch đang sơ hở), đồng thời phát động tư tưởng tấn công địch cùng với phương thức lực lượng vũ trang làm đòn xeo hỗ trợ cho quần chúng tại chỗ nổi dậy tiến công địch bằng 3 mũi giáp công; và kết quả ta đã giải phóng được đại bộ phận nông thôn đồng bằng của tỉnh.

Tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp và nhận định: chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) thông qua. Thời gian tiến hành Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa được chọn vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân (1968), trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế. Tháng 7-1967, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V thành lập Mặt trận 4 nhằm chỉ huy thống nhất cả ba thứ quân trên chiến trường tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng bao gồm lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng Đà, Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị chủ lực Quân khu 5.

Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, khởi đầu một quá trình đi xuống về chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký kết. Mỹ tuy rút quân khỏi miền Nam, nhưng vẫn tiếp tục nuôi dưỡng ngụy quyền tay sai làm công cụ cho chính sách thực dân mới ở miền Nam. Chiến thắng dồn dập của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam cuối năm 1974, đầu năm 1975 đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền suy sụp hẳn. Thế và lực của ta mạnh lên gấp nhiều lần, tạo thời cơ chiến lược để Trung ương Đảng quyết định giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Đầu tháng 2-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu cho trận then chốt mở màn chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Ngày 19-3, ta giải phóng Quảng Trị, 25-3 giải phóng thành phố Huế. Quân địch ở Quảng Đà hoang mang, dao động dữ dội, binh lính ngụy đào ngũ, rã ngũ ngày càng nhiều. Bọn địch thua trận từ các nơi ùn ùn kéo về Đà Nẵng làm cho Ngô Quang Trưởng càng thêm hốt hoảng, chúng ra sức gào thét “tử thủ Đà Nẵng”.

Từ tháng 3-1975, các quận, huyện, thị dưới sự chỉ đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà đã đẩy mạnh 3 mũi giáp công, mở ra từng khu vực, chuẩn bị thực lực giành thắng lợi lớn khi thời cơ đến. Ngày 25-3, Bộ Chính trị họp nhận định thời cơ đã đến và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu ủy và Quân khu 5 chuẩn bị tích cực và khẩn trương cho chiến dịch tiến công vào Đà Nẵng. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5 làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận chỉ đạo các cánh quân giải phóng Đà Nẵng phải quán triệt tư tưởng “5 nhất”: kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng nhất.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy liên tục suốt 27 ngày đêm (từ 3-3 đến 29-3-1975) của quân và dân Quảng Nam, Đà Nẵng, với sự hỗ trợ của chủ lực bộ và quân khu đã giành được toàn thắng, giải phóng thành phố Đà Nẵng, đập tan căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất của Mỹ - ngụy ở miền Trung. Nhân dân Quảng Nam, Đà Nẵng thực sự làm chủ quê hương, bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển.

TRỌNG HUY
(Theo “Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng
(1930-1975)”, NXB Sự thật)

;
;
.
.
.
.