Ngày 13-3-1975, Đặc Khu ủy Quảng Đà ban hành điện chỉ đạo các địa phương nêu rõ: Hiện Tam Kỳ, Quảng Ngãi trong thế bị cô lập, địch hoang mang dao động mạnh, nhiều nơi nhốn nháo tháo chạy. Nên một mặt huy động 40 đến 50 nòng cốt xung kích hợp pháp chú trọng sử dụng gia đình binh sĩ để tiến công trực diện, trực tiếp đưa tối hậu thư cho sĩ quan địch. Mặt khác, xúc tiến việc thành lập các ban khởi nghĩa.
![]() |
Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà trên cánh đồng Nam Phước đang hành quân tiến về Đà Nẵng. |
Đồng chí Trần Thận, nguyên Khu ủy viên Khu V, Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà, sau này kể lại: “Trên đường về Khu ủy V để họp ngày 20-3-1975, đồng chí Võ Chí Công điện xin ý kiến Bộ Chính trị là: “Địch sẽ rút bỏ đồng bằng Khu V và Trị Thiên, ta phải huy động toàn bộ lực lượng tấn công ngay, hướng tấn công chủ yếu là thành phố Đà Nẵng và Quy Nhơn...”. Anh Năm Công chỉ đạo chúng tôi: “Tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẽ chuyển hướng chiến trường về phía Quảng Đà!”.
Ngày 20-3-1975, đồng chí Võ Chí Công gửi một bức điện cho Bộ Chính trị: “Đề nghị bao vây tấn công Đà Nẵng bằng lực lượng tại chỗ và Trung ương tăng cường cho 1F, vì Đà Nẵng là thành phố quan trọng thứ hai ở miền Nam, căn cứ liên hiệp quân sự hiện đại và mạnh vào bậc nhất”.
Ngày 21-3-1975, Thường vụ Khu ủy V triệu tập toàn Ban Thường vụ Quảng Đà lên nhận chỉ thị mới, để giải phóng Đà Nẵng. Tại cuộc họp, anh Năm Công chỉ đạo: “Dù phương án nào thì Quảng Đà cũng phải làm thật tốt ba việc: 1. Phải làm cho địch tan rã tại chỗ, không để địch co cụm về các tỉnh phía nam, về Sài Gòn. 2. Không để địch hốt dân đi vào Nam. 3. Phải bảo vệ nguyên vẹn thành phố, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, có kế hoạch tiếp tế, cứu trợ đừng để dân bị đói”.
Cùng lúc đó, Khu ủy V đưa ra 3 phương án để giải phóng Đà Nẵng:
- Sau khi ta giải phóng Huế, Tam Kỳ, địch bên trong Đà Nẵng sẽ rối loạn; nếu quân chủ lực chưa đến kịp thì Quảng Đà phải huy động toàn bộ lực lượng vũ trang, chính trị tại chỗ tấn công, nổi dậy giải phóng thành phố.
- Sau khi đánh giải phóng thị xã Tam Kỳ, lực lượng của Sư đoàn 2 chủ lực quân khu sẽ tiến ra Đà Nẵng và Sư đoàn 304 đứng chân ở Thượng Đức sẽ từ phía tây nam đánh xuống, cùng phối hợp giải phóng Đà Nẵng.
- Phương án giải phóng Đà Nẵng bằng chủ lực cơ động của Bộ Tổng Tham mưu phải chờ sau khi ta giải phóng Huế, mới tiến vào được và phải có thời gian chuẩn bị để bảo đảm công tác hậu cần.
Đặc Khu ủy Quảng Đà xác định Đà Nẵng là một trọng điểm để chấm dứt chiến tranh nên “phải huy động lực lượng tại chỗ nổi dậy bao vây, gọi hàng bức rút làm tan rã toàn bộ quân địch, mở đường cho quân chủ lực tấn công giải thành phố” theo tinh thần “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, với phương châm: “táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng”.
Đại tá Hà Bân, nguyên Phó Chỉ huy Mặt trận 44, Thành đội trưởng Đà Nẵng, nhớ lại: “Về đến căn cứ Hòn Tàu, tôi được tham gia hai hội nghị có tầm quan trọng đặc biệt của Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà và Đảng ủy Quân sự Mặt trận 44. Hai hội nghị diễn ra liên tiếp trong 1 ngày và 1 đêm bàn kế hoạch “tiến công và nổi dậy” giải phóng Đà Nẵng. Đồng chí Hồ Nghinh phổ biến nghị quyết Thường vụ Khu ủy: Một là, nếu sư đoàn I và sư đoàn II của ngụy bị tiêu diệt tan rã. Quân ta giải phóng được thị xã Tam Kỳ, căn cứ Chu Lai, Quảng Ngãi và Huế, thì tập trung tất cả lực lượng của Mặt trận 44 cùng một bộ phận chủ lực của Quân khu tiến công kết hợp với sự nổi dậy quần chúng nhân dân giải phóng thành phố Đà Nẵng.
Vùng nông thôn giao cho bộ đội địa phương huyện, cùng lực lượng du kích và nhân dân kết hợp tấn công nổi dậy và binh vận để bức hàng, bức rút các cứ điểm của địch. Hai là, nếu trường hợp chủ lực của địch tập trung về Đà Nẵng cố thủ, thì tiến hành bao vây tiêu hao từng bộ phận, kết hợp chủ lực của Bộ Quốc phòng và Quân khu tập trung tấn công bằng hợp đồng các binh chủng. Kết hợp với lực lượng du kích mật và biệt động đánh địch từ bên trong và quần chúng nổi dậy nhanh chóng giải phóng thành phố trong thời gian ngắn”.
Ngày 18-3, phán đoán địch có thể rút bỏ Huế và đưa sư đoàn bộ binh 1 vào Đà Nẵng để tổ chức phòng thủ từ đèo Hải Vân trở vào Nam, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Quân khu Trị Thiên cắt đứt đường quốc lộ 1A, áp sát Huế nhằm tiêu diệt sư đoàn này không cho chúng rút về Đà Nẵng. Quân ta nhanh chóng cắt đứt “cầu nối” Đà Nẵng - Huế càng làm cho địch thêm rối loạn.
Một báo cáo của chính quyền Sài Gòn cho biết đại ý: Việt Cộng gia tăng áp lực mạnh tại quận Phú Lộc (Nam Thừa Thiên), chiếm một đoạn đường của quốc lộ 1A, tràn ngập vị trí của hai tiểu đoàn biệt động quân ở phía tây quận lỵ kể trên, quân đội Sài Gòn buộc phải giật sập cầu Thừa Lưu, phá sập cầu Truồi, thị xã Huế bị uy hiếp nghiêm trọng. Tại Quảng Tín, Quảng Ngãi, Việt Cộng đánh mạnh tại Thăng Bình, Tam Kỳ, Mộ Đức, Đức Phổ và Tư Nghĩa.
Thiệu ra lệnh thiết lập một phòng tuyến mới bảo vệ Đà Nẵng từ đèo Hải Vân đến phường Thanh Bình: phía bắc là hai lữ đoàn thủy quân lục chiến và một phần lữ đoàn 147 vừa chạy từ Huế vào; phía tây là lực lượng sư đoàn 2 có sự hỗ trợ của pháo binh và thiết kỵ; phía nam do biệt động quân và địa phương quân phụ trách; ngoài ra còn có sư đoàn 1 bộ binh vừa chạy từ Huế vào, tập trung tại Trung tấm huấn luyện Hòa Cầm và các vị trí xung quanh Đà Nẵng, tổng số lên đến 100.000 quân, đóng rải tại các điểm Sơn Gà, Hiếu Đức, đèo Đại La và Non Nước.
![]() |
Đồng chí Hồ Nghinh (áo trắng, đứng) cùng Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 Quảng Đà bàn kế hoạch tiến công, giải phóng Đà Nẵng. (Ảnh tư liệu) |
Tàn quân địch từ Quảng Trị, Huế, Quảng Ngãi, Quảng Nam chạy về Đà Nẵng gồm: sư 1, 2, 3 bộ binh đứng từ Vĩnh Điện ra Hòa Hải. Sư đoàn 1 không quân, hải quân, liên đoàn 12 biệt động quân (đóng tại Phú Lộc), pháo binh có khoảng 100 khẩu cỡ 105 đến 175 ly. Không quân có 375 máy bay (có 125 chiếc chiến đấu), thiết giáp có 76 xe các loại; lực lượng chủ lực khoảng 26.000 tên. Lực lượng bảo an có ba tiểu đoàn và 16 trung đội dân vệ, khoảng 2.600 tên. Lực lượng cảnh sát dã chiến có 2500 tên và 24.000 tên phòng vệ dân sự có trang bị vũ khí.
Ngày 21-3, một trung đoàn thuộc Sư đoàn 2 của ta đánh chiếm Tuần Dưỡng, cắt đường bộ từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng. Ngày 26-3-1975, Huế được giải phóng, vòng vây Đà Nẵng càng bị khép chặt. Chứng kiến giờ phút tuyệt vọng đó, một nhà báo Mỹ tường thuật rằng: “Đà Nẵng đã từng là căn cứ quân sự Mỹ lớn nhất ở nam Việt Nam nhưng nó đã nhanh chóng bị cô lập khi các lực lượng của Bắc Việt và Việt cộng từ trên rừng tràn xuống phía nam Đà Nẵng và tiến về phía biển, cắt tất cả các đường thoát thân trên bộ. Sự khiếp sợ lan tràn khắp thành phố”.
Trước thế cùng quẫn đó, Nguyễn Văn Thiệu ban hành nhiều mệnh lệnh trái ngược nhau làm hỗn loạn và hoang mang cực độ. Từ dinh Độc Lập, Thiệu gọi cho Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Vùng 1 Chiến thuật để nắm tình hình Đà Nẵng, nói xong Thiệu buông thõng một câu: “Trưởng bây giờ tuyệt vọng quá!”. Những lệnh “nước đôi” của Thiệu đã đẩy Trưởng vào tình thế bối rối, tuyệt vọng, Trưởng chua xót thốt lên: “Sài Gòn đang phản bội chúng ta!”. Trong tình huống nguy khốn và bấn loạn, Nguyễn Văn Thiệu cho chuyển gấp 20.000 khẩu súng ra Đà Nằng và tiếp tục kêu gào “tử thủ Đà Nẵng” nhưng đã quá muộn!
Thời cơ giải phóng Đà Nẵng đã chín muồi.
LƯU ANH RÔ