Tiến công giải phóng Đà Nẵng - Bản hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh - Kỳ 3: Tan rã và tháo chạy

Đồng chí Võ Chí Công gửi cho Bộ Chính trị một bức điện nêu rõ: Có hiện tượng địch rút Huế, lực lượng tổng dự bị cũng rút, đề nghị Bộ Chính trị điều quân tấn công giải phóng Đà Nẵng. Còn phía trong (các tỉnh đồng bằng) chúng tôi sẽ làm theo điện vừa báo cáo các anh. Lập tức Bộ Chính trị chỉ đạo: Nếu thấy làm được thì giải phóng Đà Nẵng đi!

Quân giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. (Ảnh tư liệu)
Quân giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. (Ảnh tư liệu)

Đồng chí Phạm Đức Nam nhớ lại: “Mờ sáng ngày 28-3, từ căn cứ Hòn Tàu, tất cả cán bộ lãnh đạo chỉ huy của Khu ủy V và Đặc Khu ủy Quảng Đà được chia làm hai đoàn tiến về Đà Nẵng: Đoàn thứ nhất do anh Trần Thận phụ trách, có nhiệm vụ cùng với Bộ chỉ huy tiền phương của Đặc Khu ủy ra lót sát vùng ven thành phố để chỉ đạo giải phóng Đà Nẵng.

Đoàn đi theo hướng từ Đồng Lớn xuống Xuyên Hiệp qua cụm Chiêm Sơn ra Điện Bàn. Trong đoàn còn có các anh Phan Hoan, Nguyễn Thanh Năm, Võ Văn Đặng (Trưởng ban Đấu tranh chính trị Khu ủy V), Phan Văn Trình (tức Trí, Trưởng ban Binh vận Khu ủy V).

Đoàn thứ hai do anh Năm Công (tức Võ Chí Công) trực tiếp phụ trách gồm tất cả các cơ quan, ban ngành và bộ phận tiền phương Khu ủy đi theo hướng Xuyên Trà rồi ra đường số 1, để gặp cho được Sư đoàn 2 đang hành tiến từ Tam Kỳ về Đà Nẵng cũng ngay sáng hôm đó. Tôi cùng với các anh Trần Văn Đán, Hoàng Văn Lai, Thường vụ Đặc Khu ủy đi theo đoàn này”.

Trận đánh Đà Nẵng bắt đầu bằng những trận mưa pháo của quân giải phóng vào phi trường Đà Nẵng, cảng Đà Nẵng, ngăn lực lượng địch chạy về phía nam. Cùng lúc, 3 mũi tiến công gồm các sư đoàn và các trung đoàn độc lập của hai mặt trận B-l và B-4. Mặt trận B-4 cho các sư đoàn tiến theo quốc lộ 1A về phía đèo Hải Vân. Sư đoàn 324-B và Sư đoàn 325-C tiến qua núi Non Nước từ phía đông về Đà Nẵng. Sư đoàn 711 và sư đoàn 304 cùng với các trung đoàn độc lập của Mặt trận B-l từ phía nam kéo ra với các dàn pháo và xe tăng rất mạnh.

Người dân tản cư từ phía Bắc vào, phía Nam ra, ùn ùn kéo vào Đà Nẵng, chen lẫn với binh lính địch càng làm rối loạn hàng ngũ của chúng. Tại đầu cầu phía bắc Nam Ô, theo một nhà báo phương Tây thì “​​hàng nghìn người tị nạn luồn lách xuống từ đèo Hải Vân đến cây cầu”, một “Đoàn xe khổng lồ gồm ô-tô, xe jeep, xe tải, xe buýt, xe máy, xe đạp, xe đẩy” ùn ùn và tắc nghẽn. Tại trung tâm thành phố, người tị nạn đổ xô ra đường, nhốn nháo với ý nghĩ duy nhất “làm sao thoát khỏi Đà Nẵng”; binh lính địch thì ngơ ngác tìm đơn vị…

Mỹ lập cầu hàng không đưa máy bay lên thẳng và Boeing chuyển cố vấn, sĩ quan cao cấp ngụy và gia đình di tản vào Sài Gòn; việc di tản gia đình sĩ quan ngụy càng gây thêm sự rối loạn trong hàng ngũ địch… Ký giả Daul Vogle của hãng tin UPI trong một bản tin về Đà Nẵng đã chứng kiến: “Tại phi trường Đà Nẵng, khoảng 1.000 người tràn ra phi đạo, đánh đập, dày xéo, bắn nhau để cố leo lên chiếc Boeing của hãng World Aiwaye do USAID thuê bao...

Trên chiếc máy bay duy nhất có 2 phụ nữ và 1 em bé, còn lại là quân nhân. Nhiều binh lính đã dùng đại liên bắn theo máy bay... Tôi đã ở Việt Nam 18 năm, nhưng cảnh thấy ở Đà Nẵng hôm thứ Bảy là cảnh thê thảm nhất mà tôi đã chứng kiến trong đời”.

Viên Tư lệnh Sư đoàn 1 không quân của Sài Gòn đóng tại phi trường Đà Nẵng chiều hôm đó (28-3-1975) còn họp các sĩ quan tuyên bố “tử thủ Đà Nẵng đến cùng” nhưng 11 giờ đêm thì đã biến mất. Một tài liệu cho biết: “Các phi công thấy phi trường bị oanh tạc sợ không còn máy bay để chạy về Sài Gòn, nên đã bảo nhau ù té chạy ra phi đạo, lên máy bay dông tuốt. Trong đêm hôm đó, có 26 máy bay đã bỏ chạy trước khi có lệnh rút lui. Việt Cộng vào sân bay Đà Nẵng đã lấy được 26 máy bay các loại, trong đó có phản lực cơ A37 và vận tải cơ C130, 20 xe tăng và 40 đại bác”.

Trung tướng Phan Hoan nhớ lại: “Từ 5 giờ sáng ngày 28-3-1975, ta bắn pháo lớn vào khống chế sân bay, bến cảng, sở chỉ huy Quân đoàn 1, bán đảo Sơn Trà... thì tình trạng hoang mang, dao động của chúng càng cao hơn. Lúc 22 giờ ngày 28-3-1975, Ngô Quang Trưởng bỏ nhiệm sở chạy ra tàu ngoài biển để tẩu thoát, cơ quan đại diện Mỹ tại Đà Nẵng đốt trụ sở, bỏ chạy theo đường không và đường biển, trường huấn luyện tân binh Hòa Cầm bỏ chạy tán loạn...

Ngụy quyền Đà Nẵng hoàn toàn bất lực trước những hoạt động phá phách, cướp của, giết người của quân ngụy trong ngày cao điểm nhất là ngày 28-3-1975; bọn lính rằn ri, thủy quân lục chiến cởi trần để lộ hai chữ “sát cộng” khắc trên ngực, biệt kích lôi hổ... tay lăm lăm súng, kéo đi cướp bóc, chúng bắn xả vào các ổ khóa của những tiệm buôn lớn đang khóa kín cửa, rồi xô vào cướp của”.

Đến hai giờ chiều ngày 28-3-1975, quyền kiểm soát của Sài Gòn đối với tất cả các thôn và làng xung quanh Đà Nẵng đã sụp đổ, quân chính quy và dân quân của địch đều tìm đường chạy trốn; cả kho đạn dược chính và kho nhiên liệu đều không hoạt động, những người điều hành chúng đã bỏ chạy, 3.000 tân binh tại Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm được Ban Binh địch vận Quảng Đà vận động nổi dậy làm binh biến, bắn lại chỉ huy và bỏ chạy về quê…

Cảng Đà Nẵng chứng kiến một cảnh tượng hỗn độn chưa từng thấy: “Nhiều tàu thuyền đủ mọi kích cỡ chạy quanh một vùng biển như vậy. Sự hỗn loạn tại cảng Đà Nẵng cũng điên cuồng như trên đường phố Đà Nẵng: thuyền buồm, sà lan và tàu buôn của nửa tá quốc gia và Hải quân Việt Nam và thuyền tam bản và tàu đánh cá đều đông đúc với những người cố gắng trốn thoát”.

Theo Frannk Snepp, nhân viên CIA tại Đà Nẵng, tường thuật cho các hãng tin nước ngoài: “Quá trưa ngày 28-3-1975, Sư đoàn 3 Nam Việt Nam đóng phía tây nam thành phố Đà Nẵng đã không còn nữa. Tin thất trận bay về Bộ Tư lệnh của Ngô Quang Trưởng, Trưởng gọi cho Thiệu ở Sài Gòn hãy dành cho ông ta “một sự linh hoạt nào đó”, Thiệu không thèm hỏi gì”. Thế rồi, Trưởng biết không còn con đường nào khác nên một mặt phát loa phóng thanh tiếp tục kêu gọi “tử thủ Đà Nẵng” và mở điện sáng cả ngày đêm tại văn phòng làm việc của mình, mặt khác ráo riết tìm đường tẩu thoát.

Ở sở chỉ huy của Trưởng, nhân viên CIA là Francis và hai người Anh giúp ông ta hủy hồ sơ, bản đồ và tài liệu rồi cùng lên máy bay của Trưởng bay về Bộ Tư lệnh hải quân trên bán đảo Sơn Trà... Tại đó, 2 giờ đêm ngày 28-3, Trưởng đang triệu tập một cuộc họp với các sĩ quan dưới quyền thì pháo của quân giải phóng từ đèo Hải Vân rót xuống tới tấp, ông ta nhanh chóng cùng đám thân tín cướp một chiếc canô nhằm Hạm đội 7 ngoài khơi Đà Nẵng thẳng tiến”.

Ghi nhận của đài báo phương Tây (hãng UPI, ra ngày 29-3-1975) cho biết hàng nghìn người lội xuống sóng và bơi đến những con tàu nhỏ gần nhất, trong số đó có Ngô Quang Trưởng, đó là một cảnh tượng kinh hoàng chưa từng thấy...

LƯU ANH RÔ

;
;
.
.
.
.