Tiến công giải phóng Đà Nẵng - Bản hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh - Kỳ cuối: Giải phóng thành phố Đà Nẵng

Sư đoàn 304 của ta phát triển theo đường 14 xuống Hiếu Đức, Hòa Cầm, tách một bộ phận tiến vào đánh chiếm sân bay Đà Nẵng và hội quân với các cánh quân của sư đoàn 2. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 97 của Đặc khu lót ở Hòa Hải đón đánh địch rút chạy ở phía nam Non Nước, tiểu đoàn 4 truy kích địch ở trận địa pháo nam Nước Mặn.

Phút gặp gỡ đầu tiên giữa quân giải phóng với các lực lượng nổi dậy trong thành phố Đà Nẵng. Ảnh tư liệu
Phút gặp gỡ đầu tiên giữa quân giải phóng với các lực lượng nổi dậy trong thành phố Đà Nẵng. Ảnh tư liệu

Một bộ phận lính thủy quân lục chiến co cụm ở cô nhi viện An Bình nổ súng đánh trả. Sau 2 giờ chiến đấu, ta chiếm được Mỹ Thị - An Bình, mở rộng cửa ngõ vào quận 3. Tiểu đoàn đặc công của tỉnh tiến đánh cầu Trịnh Minh Thế và trại Trần Nguyên Hãn rồi phát triển chiếm kho An Đồn. Các cơ sở của ta tại nhà máy điện Liên Trì đã buộc đơn vị cảnh sát bảo vệ nhà máy đầu hàng, lực lượng công nhân nổi dậy chiếm giữ toàn bộ nhà máy, giữ nguyên hiện trạng, bảo đảm nguồn điện trong thành phố. Công nhân hỏa xa, công nhân hãng Sicôvina, nhà máy nước ngọt, nhà máy nước... đều nổi dậy làm chủ nhà máy, xí nghiệp. Công nhân cảng Đà Nẵng nổi dậy làm chủ bến cảng. Tại đài phát tín, lúc 12 giờ trưa, lực lượng học sinh, sinh viên quận 1 cùng cơ sở ta nổi dậy chiếm đài và lập tức phát đi các tài liệu tin tức cách mạng…

Lúc 11 giờ 30 ngày 29-3-1975, thành phố Đà Nẵng được giải phóng! Đồng chí Trần Hưng Thừa, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Nẵng kể: “Lúc 13 giờ, Tòa Thị chính, bến cảng đã chiếm đóng; cũng vào lúc 13 giờ xe tăng đầu tiên quân giải phóng đã vào đến gần ngã tư chợ Cồn, được quần chúng hoan hô nhiệt liệt.

Chúng tôi gặp ngay chị Phụng Ký, chị Hồng Sâm, bà Phan Thị Châu Liên (con gái cụ Phan Chu Trinh), bàn với các chị việc may thêm cờ, đón quân giải phóng vào thành phố, giúp lập lại trật tự trong thành phố. Tối hôm đó, đúng 18 giờ, cả thành phố bật sáng bằng dòng điện của nhà máy điện Liên Trì được lực lượng nổi dậy chiếm lĩnh cung cấp, đem lại một khí thế mới, một sức sống mới. Anh em nói với nhau, đời chúng ta có hai lần sung sướng nhất: Lần thứ nhất là tham gia giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại Đà Nẵng; lần thứ hai sau gần 30 năm chiến đấu lại tham gia nổi dậy giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975”.

Chính thời điểm đó, Thường vụ Khu ủy V đánh đi bức điện ngày 29-3-1975, gửi Trung ương và Trung ương Cục vỏn vẻn một dòng đầy phấn khích: “Chiều ngày 29-3-1975, ta đã giải phóng thành phố Đà Nẵng và toàn tỉnh Quảng Đà”. Tiếp đó, bức điện của đồng chí Võ Chí Công thông báo: “Tối ngày 29-3-1975, tôi đã vào thành phố, tình hình thành phố gần như bình thường, các khu dân cư còn nguyên vẹn, dân rất phấn khởi, quần chúng đã cùng lực lượng địa phương nổi dậy khi chủ lực vào. Địch ở đây bị tan rã rất lớn, ta đang tiếp tục truy quét tàn binh. Đề nghị Trung ương có kế hoạch chi viện gạo và xăng để kịp giải quyết cho dân” (Năm Công). 

Ngày 11-4-1975, trong cuộc họp Đặc Khu ủy mở rộng, đánh giá về thắng lợi, anh Năm Công nói: “Kế hoạch giải phóng khu V đề ra 2 năm, thực hiện chỉ có 20 ngày. Quảng Đà chỉ trong 2 ngày, ta giải phóng 7 quận lỵ, 3 quận, 1 thị xã, 1 thành phố, làm tan rã sụp đổ trên 10 vạn quân địch!”. Đây là chiến công vô cùng to lớn của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng góp phần cùng cả dân tộc làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Như vậy, trong vòng 32 giờ quân dân ta tiến công, nổi dậy giải phóng thành phố Đà Nẵng, đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 quân địch, chiếm trọn vẹn căn cứ hải - lục - không dân khổng lồ nhất của Mỹ, Thiệu tại miền Nam; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, xóa sổ Quân khu 1 của chúng, đẩy chính quyền Sài Gòn nhanh chóng đi tới chỗ sụp đổ hoàn toàn; thu “phân nửa” nguồn lực hiện có của chính quyền Sài Gòn tại miền Nam gồm các “kho vũ khí, xe tăng, máy bay và đạn dược” và phục vụ đắc lực cho chiến dịch Hồ Chí Minh.

Theo nhận định của một tác giả cũng là nhân chứng cho những ngày cuối cùng của chính quyền Sài Gòn thì: “Cuộc rút lui khỏi Đà Nẵng còn bi đát hơn cả cuộc triệt thoái Cao Nguyên mấy tuần trước đó. Trong tổng số sư đoàn chính quy, 4 liên đoàn biệt động quân, một sư đoàn không quân và hàng ngàn binh sĩ địa phương quân, chưa kể các binh sĩ thuộc các binh sở và binh sĩ thuộc các bộ tham mưu, chỉ có chừng 16.000 người được chở ra khỏi Đà Nẵng...”.

Đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì sự sụp đổ tại Đà Nẵng là vô cùng khủng khiếp, bởi nó “càng ngày càng gây thêm những sự sụp đổ khác, và càng về sau, sự sụp đổ càng trầm trọng hơn, cũng như càng nhục nhã hơn”. Giám đốc CIA là William Colby cho rằng: “Cán cân lực lượng bây giờ đã dứt khoát ngả về phía có lợi cho cộng sản. Tiến trình sụp đổ và chủ bại đang diễn ra có thế sẽ không thể nào trái ngược lại được và sẽ mau lẹ đưa tới sự sụp đổ của chính phủ nam Việt Nam, cũng như sự sụp đổ về ý chí của chính phủ ấy”. Từ Sài Gòn, Phó thủ tướng Phan Quang Đán tuyên bố với các ký giả rằng: “Chúng tôi thua rồi! Cộng quân đã chiếm Đà Nẵng!”.

Ngày 3-5-1975, báo Nhân Dân có bài “Sự phát triển kỳ diệu của cuộc tổng tiến công”, cho rằng “Chiến thắng Đà Nẵng còn là một mẫu mực về nghệ thuật phát triển, tận dụng thời cơ hành động rất kiên quyết, linh hoạt, dám mạnh dạn thay đổi những lối đánh thông thường bằng những lối đánh táo bạo, phù hợp với tình hình địch và ta đang thay đổi mau lẹ, không phải là từng ngày mà thậm chí từng giờ”.

Trong bài nói chuyện nhân dịp thăm cán bộ trung cao cấp ở Khu V và thành phố Đà Nẵng vào tháng 7-1975, đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: “Chiến thắng ở Đà Nẵng là chiến công mở đầu đưa đến thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc Việt Nam ta. Đồng thời, tôi cũng thấy cần làm nổi bật những điều xuất sắc trong những chiến công vừa qua. Đó là kinh nghiệm của các đồng chí, nhân dân địa phương cùng với lực lượng giải phóng, giải phóng Đà Nẵng rất nhanh, rất gọn, nhờ đó mà tránh cho nhân dân Đà Nẵng - thành phố Đà Nẵng những sự chết chóc, tổn thất lớn lao không thể nào lường hết được”.

Thắng lợi của Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng khẳng định sự nhạy bén, tài tình của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch, nổi bật là nghệ thuật tạo và nắm thời cơ. Đòn tiến công Huế - Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định rằng: “Tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng sớm ngoài kế hoạch, Đà Nẵng là căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất, mạnh nhất của địch mà bị ta đánh sập, có ý nghĩa quyết định và báo hiệu Sài Gòn sẽ bị sụp đổ không còn lâu nữa”.

Chiến thắng hào hùng ngày 29-3-1975 là điểm son, niềm tự hào của nhân dân Đà Nẵng, của quê hương xứ Quảng “trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.

LƯU ANH RÔ

;
;
.
.
.
.