Ứng dụng truy xuất nguồn gốc thủy sản điện tử

.

Hệ thống phần mềm truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác điện tử (eCDT VN) không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện quy trình thống kê, quản lý, kiểm soát tàu cá mà còn đáp ứng tốt yêu cầu về minh bạch nguồn gốc thủy sản theo khuyến nghị của Ủy ban châu Âu (EC). Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của ngư dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định pháp luật về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU).

Đoàn viên thanh niên Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ ngư dân cài đặt và sử dụng hệ thống phần mềm eCDT VN. Ảnh: VIỆT ÂN
Đoàn viên thanh niên Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ ngư dân cài đặt và sử dụng hệ thống phần mềm eCDT VN. Ảnh: VIỆT ÂN

Đà Nẵng là một trong những địa phương đi đầu và triển khai sớm hệ thống phần mềm eCDT VN. Đây là phần mềm dùng chung, được cài đặt và sử dụng bằng điện thoại thông minh, áp dụng cho các đơn vị, lực lượng, doanh nghiệp và cộng đồng ngư dân. Phần mềm không chỉ giúp cho việc thống kê, quản lý mà còn đáp ứng tốt yêu cầu về minh bạch nguồn gốc thủy sản với thị trường xuất khẩu đặt ra.

Các đơn vị quản lý sẽ quản lý tốt hơn quá trình kiểm tra tàu cá xuất nhập cảng, hỗ trợ quá trình giám sát sản lượng lên cảng trong điều kiện nguồn lực hạn chế, giúp loại bỏ được các sai sót trong quá trình giám sát tàu cá ra, vào cảng, giám sát sản lượng, cấp giấy chứng nhận về thủy sản khai thác. Phần mềm còn tiến tới thay thế việc ghi nhật ký khai thác trên bản giấy như hiện nay, hạn chế về khả năng sai sót, tăng mức độ tin cậy và minh bạch.

Theo Đội điều hành cảng (thuộc Ban Quản lý âu thuyền và cảng cá Thọ Quang), hiện nay 100% tàu thuyền ra vào cảng cá Thọ Quang bắt buộc chấp hành thực hiện các thủ khai báo trong hệ thống phần mềm eCDT VN trên điện thoại thông minh. Trong giai đoạn đầu, việc triển khai áp dụng hệ thống phần mềm đến ngư dân gặp nhiều khó khăn. Bởi đa số ngư dân gặp hạn chế về việc tiếp cận công nghệ, việc sử dụng điện thoại thông minh còn ít, thói quen khai báo bằng giấy hay việc triển khai hệ thống phần mềm tại các địa phương chưa đồng bộ…

Từ thực tế trên, Ban Quản lý âu thuyền và cảng cá Thọ Quang, Chi cục Thủy sản phối hợp Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), các đơn vị liên quan tổ chức các buổi tập huấn triển khai sử dụng hệ thống phần mềm và có văn bản triển khai đến các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện và đăng ký tài khoản sử dụng phần mềm theo quy định.

Trưởng ban quản lý âu thuyền và cảng cá Thọ Quang Nguyễn Lại cho biết, theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, từ ngày 1-7-2024 tất cả các cảng cá đều phải áp dụng phần mềm eCDT VN để kiểm soát tàu cá ra vào cảng, giám sát sản lượng thủy sản khai thác. Tại Đà Nẵng, từ tháng 3-2024, các đơn vị, lực lượng, doanh nghiệp và cộng đồng ngư dân đã sử dụng phần mềm. Tính đến nay, ban quản lý đã hướng dẫn cài đặt thành công cho 100% số lượng tàu cá cập cảng vào làm các thủ tục cập, rời cảng tại cảng cá Thọ Quang; xét duyệt thành công cho 3.869 tàu cá cập cảng, khai báo sản lượng lên bến và 3.951 tàu cá xuất cảng trên hệ thống phần mềm eCDT VN.

Trong công tác xác nhận, chứng nhận nguồn gốc hải sản khai thác cho các lô hàng đã xuất khẩu sang châu Âu, từ tháng 10-2023 đến ngày 28-11-2024, ban quản lý đã cấp 9 giấy xác nhận nguồn gốc thủy sản khai thác với tổng khối lượng xác nhận hơn 72,4 tấn, Chi cục Thủy sản đã cấp 130 chứng nhận thủy sản khai thác với tổng khối lượng hơn 1.520,9 tấn. “Nhìn chung, đa số ngư dân đã quen dần và thành thạo với việc sử dụng điện thoại thông minh để khai báo. Ban quản lý sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra vào cảng, truy xuất nguồn gốc thủy sản, góp phần cùng thành phố kiên quyết chống khai thác IUU”, ông Lại cho hay.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc triển khai hệ thống phần mềm eCDT VN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, bước tiến quan trọng trong nỗ lực gỡ cảnh báo “thẻ vàng” của EC và nâng cao hiệu quả quản lý ngành thủy sản. Các đơn vị cần tăng cường công tác kiểm soát, bảo đảm giám sát 100% sản lượng của tàu cá cập cảng bốc dỡ sản phẩm thủy sản khai thác; thu, nộp nhật ký thu mua chuyển tải, nhật ký khai thác bảo đảm chất lượng, có sự kiểm tra, đối khớp với dữ liệu VMS. Đồng thời, tăng cường nguồn lực tổ chức triển khai sử dụng phần mềm eCDT VN để theo dõi, kiểm soát hoạt động tàu cá, truy xuất nguồn gốc thủy sản, cấp giấy chứng nhận thủy sản khai thác, giấy xác nhận nguyên liệu thủy sản khai thác.

VIỆT ÂN

;
;
.
.
.
.
.