.

Lưu Trùng Dương: Một đời thơ gắn bó với quê hương và đồng đội

.
Gần 60 năm cầm bút, hai chủ đề lớn trong thơ Lưu Trùng Dương là cảm xúc về quê hương và đồng đội - những người lính mà ông một đời gắn bó.
Ba anh em họ Lưu gặp nhau tại Thủ đô Hà Nội năm 1954 sau 9 năm kháng chiến: Lưu Quang Thuận và vợ (đứng), Lưu Quang Thành và Lưu Trùng Dương (đội mũ bộ đội).  Ảnh tư liệu gia đình cung cấp.
Ba anh em họ Lưu gặp nhau tại Thủ đô Hà Nội năm 1954 sau 9 năm kháng chiến: Lưu Quang Thuận và vợ (đứng), Lưu Quang Thành và Lưu Trùng Dương (đội mũ bộ đội). Ảnh tư liệu gia đình cung cấp.

Công việc văn chương là lẽ sống của cuộc đời

Ông bà nội tôi sinh được 4 người con trai. Cha tôi- nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận là anh cả, nhà thơ Lưu Trùng Dương (tên khai sinh Lưu Quang Lũy) là em út. Bà nội tôi họ Dương, qua đời khi còn rất trẻ. Lúc đó cha tôi 16 và chú Lũy mới lên 7 tuổi.

Kỷ niệm về mẹ thật ít ỏi, chỉ còn hiển hiện qua tấm hình một người phụ nữ có gương mặt trái xoan hiền dịu với đôi mắt đượm buồn. Thiếu vắng tình mẫu tử từ sớm là nỗi đau lớn nhất trong đời mấy anh em cha tôi. Đó cũng là lý do để khi bước chân vào con đường văn nghiệp Lưu Quang Lũy đổi tên thành Lưu Trùng Dương (sau này cả 3 đứa con của ông đều mang tên Dương).

Đầu những năm 1940, cha tôi và chú Lũy rời thành phố Đà Nẵng quê hương ra Hà Nội sinh sống. Cha tôi làm thơ, viết kịch, rồi cùng với một số anh em, bạn bè sáng lập nhà xuất bản Hoa Lư. Chú Lũy đi học ở Trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trước ngày toàn quốc kháng chiến tháng 12.1946, chú Lũy trở về quê hương làm cán bộ tuyên truyền xung phong Quảng Nam- Đà Nẵng.

Một thời gian ngắn sau đó, theo thư gọi của Tướng Cao Văn Khánh, vốn là thầy giáo cũ từ hồi học ở Huế, ông đã đi bộ từ Quảng Nam vào Quảng Ngãi để gia nhập quân đội, đúng vào năm thứ 17 ngày sinh của mình: 5.5.1947. Kể từ ngày đó, ông đã gắn bó đời mình với sự nghiệp văn học của đất nước.

Trong bài viết “Thơ Lưu Trùng Dương có nhiều ánh thép” nhân đọc Tuyển tập Lưu Trùng Dương nhà văn Đoàn Minh Tuấn đã viết: “Ông viết về anh bộ đội Cụ Hồ từ năm 1947 – 1948. “Tập thơ của người lính” của ông đã được Giải thưởng văn học Phạm Văn Đồng từ năm 1950. Hồi ấy in ấn khó khăn chúng tôi chép thơ ông và thơ Nguyễn Viết Lãm vào sổ tay của mình. Thơ của ông là thơ chiến đấu, thơ của chiến sĩ, thơ của đêm hành quân đánh giặc…”.

Lớp độc giả trẻ thời bây giờ chắc không nhiều người nhớ đến thơ Lưu Trùng Dương nhưng với những người đọc thời chiến thì thơ của ông đã nhiều năm chiếm lĩnh tâm hồn họ. Những bài thơ như: Mây biên giới, Đáng sống xiết bao một ngày vì cách mạng, Thương nhất anh nuôi, Thơ bay khắp đỉnh Trường Sơn… đã trở thành hành trang tinh thần của những người lính qua bao thế hệ.

Tự nguyện đi theo cách mạng cầm súng giữ nước, bước chân ông đã trải qua nhiều vùng chiến sự ác liệt, từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Đường 9, Khe Sanh, Tây Nguyên cho đến nước bạn Lào. Đối với Lưu Trùng Dương, công việc văn chương là lẽ sống cuộc đời. Ông làm thơ không phải cho riêng mình, mà để góp phần tham gia kháng chiến, đánh giặc. Ông luôn tâm niệm rằng “Hạnh phúc lớn nhất của một đời thơ là đã viết được những câu thơ có ích cho nhân dân, cho cách mạng.” (Tự bạch).

Điều kỳ diệu của đời người

Đầu năm 1974, đang hoạt động ở chiến trường Khu V, nhà thơ Lưu Trùng Dương phát hiện bị mắc bệnh ung thư vòm họng. Điều trị ở Quân Y viện một thời gian nhưng sức khoẻ ngày càng giảm sút, cấp trên đưa ông ra miền Bắc chữa bệnh. Cùng đi ra đợt đó còn có nhà văn Phan Tứ bị chảy máu dạ dầy rất nặng.

Ngày tiễn nhà thơ Lưu Trùng Dương lên đường ra Bắc, anh em trong cơ quan Tuyên huấn và Văn nghệ khu V ngậm ngùi thương cảm. Nhiều người nghĩ rằng chắc khó gặp lại ông, vì căn bệnh hiểm nghèo như một cái án tử hình treo lơ lửng trên đầu. Những lời dặn dò, những bàn tay siết chặt, những giọt nước mắt và cả những bài thơ. Tôi đã được đọc một số bài, trong đó có bài của nhà thơ Ngô Thế Oanh (Đôi điều trong một đêm chia tay, Luôn nhớ anh, anh Dương…

Và để chống đỡ cái thế giới kia đầy phức tạp lạ lùng/ta chỉ có một trái tim, trái tim trần trụi/với những câu thơ, như một tình yêu không mệt mỏi/mong thơ sẽ báo điều gì kỳ diệu hơn chăng?) Đó là những bài thơ viết ở suối Đăk Oa, mùa xuân 1974.

Và đúng là thơ sẽ báo điều gì kỳ diệu hơn chăng? Vượt qua căn bệnh hiểm nghèo, vượt qua bao gian truân, thử thách của số phận, ông vẫn tiếp tục sống và không ngừng sáng tác. Hàng chục tập thơ, trường ca, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký, kịch bản phim tài liệu… nối tiếp nhau ra đời.

Thời gian gần đây, sức khỏe của ông giảm sút hẳn. Và đến hôm nay trái tim của người lính tình nguyện năm xưa đã ngừng đập. Ông trở về trong lòng đất mẹ với những đồng đội đã hy sinh, những người mà suốt đời ông đã tôn vinh họ bằng ngòi bút nhiệt huyết của mình.

Những tác phẩm chính của nhà thơ Lưu Trùng Dương: Thơ: Tập thơ của người lính (1949), Những người đáng yêu nhất (1960), Tình nguyện (1963), Nỗi nhớ màu xanh (1975), Trên đỉnh Núi Thành ta hát (1983), Bài thơ tình về chim hải âu (1988), Thơ tặng anh bộ đội Cụ Hồ, Bài ca người Đà Nẵng (2000). Văn xuôi: Kể chuyện giới tuyến (1960), Họ đi tìm thiên đường (1988), Con đường sắt vô hình (2001), Huyền thoại ở Đắk Xing (2003), Sống vì lý tưởng (2004), Lưu Trùng Dương - truyện - ký - tùy bút (2006)… Nhà thơ đã nhận được nhiều giải thưởng văn học, trong đó cao quý nhất là Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012.

Dân Việt

;
.
.
.
.
.