Phát triển kỹ thuật y tế chuyên sâu chăm sóc bà mẹ và trẻ em

.

Nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu sinh sản và chăm sóc, điều trị sức khỏe cho người dân tại Đà Nẵng và khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng không ngừng phát triển kỹ thuật y tế chuyên sâu và ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Khoa Hiếm muộn (Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng) triển khai kỹ thuật vi phẫu lấy tinh trùng cho bệnh nhân, phục vụ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF- ICSI) về sau. Ảnh: LÊ HÙNG
Khoa Hiếm muộn (Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng) triển khai kỹ thuật vi phẫu lấy tinh trùng cho bệnh nhân, phục vụ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF- ICSI) về sau. Ảnh: LÊ HÙNG

Điều trị chuyên sâu cho trẻ sơ sinh

Hằng năm, Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng tiếp nhận khoảng 350.000 lượt phụ nữ và trẻ em đến khám, điều trị và hơn 80.000 lượt bệnh nhân điều trị nội trú. Trong đó, tỷ lệ người bệnh ngoại tỉnh đến khám chiếm khoảng 50%. Bác sĩ Trần Đình Vinh, Giám đốc bệnh viện cho biết, bệnh viện không ngừng đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại; triển khai kỹ thuật mới, kỹ thuật chuyên sâu về sản phụ khoa, nhi khoa, ngoại nhi, phục hồi chức năng. Đồng thời, phát triển trở thành bệnh viện chuyên khoa sản, sản - nhi đảm nhận chức năng vùng, chăm sóc sức khỏe người dân thành phố và khu vực.

Năm 2014, Việt Nam lần đầu tiên triển khai chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm (EENC) theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới với thực hành mấu chốt là da kề da cho tất cả trẻ sinh ra thở được. Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng trở thành đơn vị tiên phong, được chọn làm 1 trong 3 trung tâm đào tạo về EENC cho cả nước.

Theo lãnh đạo bệnh viện, trong giai đoạn này, tỷ lệ tử vong sơ sinh tại đơn vị được cải thiện rõ rệt, có thể cứu sống được trẻ sinh ở 25-26 tuần tuổi thai, khoảng 650-700 gram. Không chỉ tập trung vào các can thiệp y tế chi phí thấp, hiệu quả cao, Khoa Sơ sinh cấp cứu - hồi sức tích cực và bệnh lý (Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng) còn áp dụng các kỹ thuật hiện đại như thở máy cao tần điều trị suy hô hấp, liệu pháp hạ thân nhiệt chủ động trong điều trị bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ, chăm sóc trước và sau phẫu thuật cho trẻ sinh non dị tật bẩm sinh... Nhờ đó, khoa đã đạt nhiều thành tựu trong điều trị chuyên sâu cho trẻ sơ sinh cực non dưới 28 tuần, cực nhẹ cân dưới 1.000 gram, suy hô hấp nặng và dị tật bẩm sinh phức tạp. Đến năm 2024, tỷ lệ tử vong chung ở trẻ sơ sinh điều trị tại bệnh viện giảm xuống đáng kể so với các năm trước. Trong số gần 5.900 trẻ nhập đơn vị, tỷ lệ tử vong là 1,9%.

Tỷ lệ sống ở nhóm trẻ có cân nặng thấp ngày càng được được cải thiện đáng kể, trong đó trên 75% trẻ có cân nặng dưới 1.500 gram được cứu sống. Đối với nhóm trẻ cực nhẹ cân dưới 1.000 gram, tỷ lệ cứu sống trẻ khoảng 55%. Thành tích cứu sống được trẻ nhỏ nhất cũng tăng lên với trẻ 23-24 tuần, cân nặng nhỏ nhất 560-600 gram. Đây là nhóm tuổi thai có tỷ lệ sống còn rất thấp tại Việt Nam.

Bác sĩ Trần Thị Hoàng, Phó Giám đốc Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng cho biết, Khoa Sơ sinh cấp cứu - hồi sức tích cực và bệnh lý đạt nhiều thành tựu trong chăm sóc và điều trị trẻ sơ sinh. Đặc biệt, khoa đóng góp vào 3 nhiệm vụ quan trọng cho ngành chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em của Đà Nẵng, Việt Nam và quốc tế. Đó là cải thiện tử vong và bệnh tật trẻ sơ sinh; góp phần nhân rộng các can thiệp chi phí thấp, hiệu quả cao trong giảm tử vong và bệnh tật ở trẻ sơ sinh nói riêng, ở bà mẹ và trẻ em nói chung.

Những tiến bộ trong điều trị vô sinh

Việc điều trị vô sinh, hiếm muộn tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng ngày càng tiến bộ, với những kỹ thuật hiện đại, giúp tăng tỷ lệ thụ thai thành công và bảo tồn khả năng sinh sản trong những trường hợp đặc biệt. Qua đó, góp phần thay đổi cuộc sống của hàng nghìn cặp vợ chồng, trở thành địa chỉ tin cậy trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản không chỉ tại khu vực miền Trung mà còn trên toàn quốc.

Bác sĩ Trần Đình Vinh cho biết, bệnh viện đã đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, giúp chẩn đoán và điều trị vô sinh nhanh chóng, chính xác, nâng tỷ lệ thành công. Bệnh viện còn sở hữu hệ thống đông lạnh hiện đại sử dụng kỹ thuật thủy tinh hóa, một bước tiến lớn trong bảo tồn khả năng sinh sản. Hệ thống quản lý dữ liệu số hóa toàn diện cũng được tích hợp, giúp theo dõi và tối ưu hóa mọi quy trình, từ chẩn đoán đến điều trị. Cùng với đó, bệnh viện còn có đội ngũ bác sĩ và chuyên gia vững vàng chuyên môn, được đào tạo chuyên sâu từ các trung tâm lớn trong và ngoài nước. Điều này giúp bệnh nhân trong khu vực được tiếp cận với những tiến bộ y học mới nhất mà không cần phải đi xa.

Ngoài thụ tinh nhân tạo (IUI) thì thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại bệnh viện đã đạt tỷ lệ thành công cao nhờ vào quy trình tối ưu hóa và hệ thống nuôi cấy phôi hiện đại… Hằng năm, bệnh viện tiếp nhận hơn 6.000 lượt bệnh nhân điều trị hiếm muộn mới, trong đó có khoảng 500 - 700 chu kỳ IVF được thực hiện. Tỷ lệ thành công IVF đạt trung bình 50%, tương đương với các trung tâm lớn ở trong nước và khu vực Đông Nam Á.

Từ năm 2014 đến nay, hơn 3.000 em bé đã được sinh ra nhờ các phương pháp hỗ trợ sinh sản tại bệnh viện. Bên cạnh đó, bệnh viện đã hỗ trợ thành công nhiều trường hợp đặc biệt như bệnh nhân ít trứng, lạc nội mạc tử cung buồng trứng nặng, lớn tuổi, vô sinh nhiều năm, bệnh nền phức tạp… Thành công này không chỉ mang lại niềm vui cho gia đình mà còn là động lực to lớn cho đội ngũ y, bác sĩ tiếp tục hoàn thiện dịch vụ.

Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng đặt mục tiêu trở thành trung tâm hỗ trợ sinh sản hàng đầu tại Việt Nam và khu vực. Vì vậy, các công nghệ hiện đại sẽ dần được bệnh viện ứng dụng hiệu quả như kỹ thuật sinh thiết phôi tiền làm tổ (PGT) để giảm nguy cơ mắc các bệnh di truyền cho thế hệ sau và điều trị một số bệnh lý đặc biệt; đưa kỹ thuật nuôi cấy phôi Time-lapse vào sử dụng, giúp chọn lọc phôi tiềm năng tốt hơn, tăng tỷ lệ thành công IVF; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị. Đồng thời phát triển các giải pháp cá nhân hóa điều trị dựa trên đặc điểm nhân trắc học, di truyền và tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân.

LÊ HÙNG

;
;
.
.
.
.