10 năm trước, lần hụt lên nhà giàn

.

Những ngày Biển Đông “dậy sóng” nhắc nhớ đến một sơn hà nguy biến, chợt cồn cào lẫn bâng khuâng thời điểm mười năm trước hụt chuyến lên nhà giàn BK, quần đảo Trường Sa, cách đây đúng 10 năm…

Tưởng niệm các liệt sĩ hải quân hy sinh ở nhà giàn năm xưa.Ảnh: XUÂN BA
Tưởng niệm các liệt sĩ hải quân hy sinh ở nhà giàn năm xưa.Ảnh: XUÂN BA

Con tàu xé sóng lách màn đêm tiến vào khu vực nhà giàn BK. Đồng hồ chỉ 4 giờ sáng. Đại tá Phạm Ngọc Chấn, khi ấy là Chủ nhiệm chính trị Quân chủng Hải quân, phụ trách chuyến ra Trường Sa trên con tàu HQ- 996 chở chúng tôi khoát một vòng tay về phía mông lung đen ngòm nói rằng nếu ban ngày sẽ thấy sắc nước đại dương không thẫm đen mà là màu nước hến.

Dần dà chút nữa sẽ chuyển sang màu lam. Những sắc độ mà đại tá Chấn vừa nói ấy là chỉ dấu độ sâu của thềm lục địa. Độ thẫm đậm xanh đen là khoảng sâu hun hút từ ngàn thước nước trở lên. Sắc lờ đờ nước hến kia cỡ vài chục mét. Còn sắc lam bằng mắt thường có thể thấy những rặng san hô chĩu chịt với nhiều sắc độ bắt mắt. Những bãi san hô mênh mông ít cũng là chục cây số vuông nhiều thì hàng chục cá biệt có tới cỡ trăm km2 thường là chỗ đứng của các nhà giàn.

Nhà giàn thế hệ đầu còn sót lại.
Nhà giàn thế hệ đầu còn sót lại.

Tại khu vực biển BK, thế đắc hải đã tạo ra một độ sâu vừa phải cho phép những nhà giàn lênh khênh.
Có bao nhiêu nhà giàn như thế ở vùng đảo chủ quyền Việt Nam? Tôi có con số nhưng chưa được phép biên ra đây. Từ năm 1988, đã có cái tên khai sinh Cụm Kinh tế Khoa học Dịch vụ trên thềm lục địa phía nam. Không xa nhà giàn, lùi chút trong kia là lênh khênh những giàn khoan của những Bạch Hổ, những Đại Hùng (hai trong những mỏ dầu khí lớn của Việt Nam).

Nhà giàn. Nhà giàn DK, rồi BK… Thử mon men giải mã: DK có phải là Dầu khí? Mà cũng có thể là mật danh? BK là Bãi Cạn hay còn có tên khác là Ba Kè như trên tàu HQ-996 cuả chúng tôi là chỉ cái đích đến của lịch trình?

Nhà giàn DK, BK, những năm giữa và cuối thập niên 80 thuở ấy là những căn chòi canh biển kém kiên cố và xây cất không được hiện đại như bây giờ. Một tiểu đội loanh quanh trên cái sàn diện tích hơn 50m2 quanh năm suốt tháng ngó lên là trời, trông ngang là nước. Định kỳ tiếp tế, có thời điểm tàu ra sóng lớn xuồng không cặp vào chòi được. Đồng đội trên tàu tiếp tế nhìn sang bên chòi mà rưng rưng nước mắt…

Những cơn bão năm 1990, 1996, 1999, và sau chót là năm 2000 đã lần lượt thốc những cú ác liệt vào nhà giàn. Đại tá Chấn kể lại, Sở chỉ huy Quân chủng ở Hải Phòng những thời điểm ấy có lúc lặng hẳn đi khi anh em một số nhà giàn điện về là chòi khó mà trụ được nếu cứ đà bão không thay đổi sức gió.

Không thay đổi tức là đang cấp 11, 12. Tàu đặc chủng, máy bay trực thăng không thể vượt hàng trăm cây số để cứu anh em chiến sĩ nhà giàn thời điểm đó. Vĩnh biệt các thủ trưởng. Vĩnh biệt đất liền... Đó là những bức điện cuối cùng mà Sở chỉ huy Quân chủng nhận được. Mười bốn cán bộ, chiến sĩ nhà giàn đã hy sinh trong một số trận bão… Lễ tưởng niệm các chiến sĩ hải quân nhà giàn hy sinh những năm xa ấy vẫn thường được tổ chức mỗi khi tàu qua khu vực BK chứ không riêng chi tàu HQ-996 của chúng tôi hôm ấy.

Con tàu HQ-996 đang áp sát nhà giàn BK… Danh sách được phép lên nhà giàn đã được xướng lên qua loa phát thanh. Không nghe thấy tên tôi. Đúng hơn không có một nhà báo nào được vào nhà giàn! Đại tá Chấn xua những người mè nheo đòi vào nhà giàn rằng sóng lớn quá rất nguy hiểm!

Bộ phận công tác trên tàu hội ý hay đợi để bớt sóng hẵng vào? Nhưng số đông gay gắt rằng, theo kinh nghiệm, sóng còn duềnh cả ngày chứ chả thể bớt; vậy nên, chỉ có 2 tình huống một là không vào nhà giàn nữa. Số quà tặng thì sau này chuyển cho anh em cũng được. Hai là phải khéo léo mưu trí mà vào! Phương án 2 được nhanh chóng thông qua.

Xuồng được thả từ tàu HQ-996 xuống biển.

Biển vẫn làm trò tung hứng chiếc xuồng như một thứ đồ chơi mỏng manh. Trầy trật mãi mới có một người nhảy xuống được vào lòng xuồng. Rồi một người, một người nữa. Kia rồi, Đại tá Chấn bằng bước nhảy khéo léo đã đổ ập cả người vào lòng xuồng... Bấy giờ tôi mới thấy quyết định của chỉ huy con tàu không cho cánh báo chí tham gia là sáng suốt. Chỉ sơ sẩy một chút là bất cứ ai cũng có thể lăn tỏm xuống biển. Con xuồng có ca-nô dẫn có lúc tưởng như mất hút trong núi sóng nhưng tài tình một chốc lại hiện ra. Một tình huống nữa là xuồng cập vào được chân nhà giàn, đoạn trần ai nữa là làm sao leo lên? Nhưng bằng kinh nghiệm, tốp chiến sĩ hải quân hồi lâu rồi cũng líu ríu đỡ nhau leo được hết lên tàu. Mãi đến lúc non trưa, may mắn sóng có bớt nên toàn bộ số hàng, quà tặng đất liền cho nhà giàn BK đã được chuyển trót lọt!

Chạm mắt với khu vực nhà giàn BK.
Chạm mắt với khu vực nhà giàn BK.

Đất còn có tuần nhân, có vận nữa là biển cả mênh mông. Những căn nhà giàn những cái chòi canh chủ quyền ấy không thể kém an toàn và tạm bợ được. Ngay buổi sóng dữ hụt lên nhà giàn ấy, tôi ngồi với Thiếu tướng Nguyễn Nam, khi ấy là Chính ủy Bộ Tư lệnh Công binh, thành viên đoàn công tác. Chuyện với tướng Nam thú vị bởi cứ chấp chới giữa lằn ranh cái nói được và không nói được. Tôi đang biên ra cái… có thể nói được ấy ra hết đây.

Vị trí những nơi quần cư cho những người lính giữ đảo chìm có lẽ đến thời điểm năm 2009 này là đời thứ 3 thứ 4 gì đó. Thời kỳ đầu tiên chỉ là những cái cọc bê-tông (có nơi dùng cọc gỗ) cắm xuống nền san hô trên bắc hoặc thưng ván hoặc bạt. Lều bạt chung chiêng giữa nước giữa trời/ Đến một cái gai cũng không sống được… Thơ của Trần Đăng Khoa cứ như một thứ lý lịch trích ngang hệ thống lẫn lịch sử nhà cửa của đảo chìm Trường Sa. Bây giờ, qua một số đảo chìm có đảo vẫn để nguyên cái nhà gỗ hoặc bê-tông lều bạt ấy dáng chừng lưu lại làm kỷ niệm? Có đảo đã tháo dỡ chỉ còn sót lại mấy cái cọc lênh khênh. Thế hệ thứ hai có sự can dự của công binh chủ yếu là quân công binh của Hải quân đảm trách. Đó là những công trình nói là lô-cốt cũng được vì nó bít bùng bê-tông chỉ hở ra những khung cửa na ná như lỗ châu mai.

Trong đó, chia ra những ô bê-tông dùng cho việc sinh hoạt lẫn phòng thủ. Loại nhà kiêm lô-cốt như thế hiện vẫn còn. Thế hệ thứ 3, tạm gọi là một tổ hợp kiến trúc cũng bắt mắt vừa dân sinh lẫn quốc phòng. Từ xa nhìn như cái nhà, không là một biệt thự màu trắng 3-4 tầng nhô giữa đại dương. Đặt chân lên đảo có cửa giả có các phòng làm việc sinh hoạt hội họp. Có những ô cửa trổ ra các hướng hình như tiện cho cả việc bố phòng lẫn phong thủy. Tôi biết nhìn bắt mắt là thế nhưng gì thì gì phải chịu được bão gió cấp cao nhất lại cả động đất nữa. Rồi bên dưới tầng san hô kia, móng tất nhiên rồi nhưng cũng có thể là bể chứa nước ngọt hay công sự phục vụ cho việc phòng thủ. Nhiều tiện ích và phải kiên cố như thế nên phải có sự can dự của ngành công binh quốc gia vào việc thiết kế xây cất những thế hệ thứ 3 của nhà ở các đảo chìm và cả nhà giàn Trường Sa. Không biết mai kia có thế hệ nhà thứ 4, thứ 5 nữa không?

Câu chuyện của chúng tôi trở lại với hệ thống nhà giàn. Tôi chỉ biết láng máng rằng cái nhà giàn hiện nay là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kết cấu khung thép của giàn khoan dầu khí với hệ thống móng cọc thép chịu được bão cấp 12 hoặc hơn. Phải là một kết cấu thế nào đó nhiều nhà giàn như khu vực BK này, máy bay trực thăng có thể đậu được để tiện cho việc tiếp tế phòng mỗi khi biển động. Những ô cửa thanh bình trổ ra từ những căn phòng chắc chắn vững chãi gợi lên một cảm giác tin cậy, ấm áp. Lính ta tràn cả ra khung nhà giàn mà vẫy mà hò hét với cánh văn công…

Tôi nhìn xuống làn nuớc thăm thẳm kia để rùng mình cái nỗi không biết làm sao lính công binh nhà mình làm cách nào để thương lượng được với hà bá hay vua thủy tề để cắm được hệ thống đài cọc vững vàng kiên cố của nhà giàn mà quân dầu khí gọi là lá chắn thép cho ngành dầu khí Việt Nam?

Công sức của người lính công binh ấy bây giờ đang làm chỗ dựa góp phần làm nên cái neo vững chãi bền chặt của chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa. Mà nữa, nếu tôi không lầm, có lẽ họ là ông tổ của những hậu duệ mai kia sẽ cắm hệ thống đài cọc hiện đại bà đỡ cho nền móng những thành phố, sân bay trên biển của nước Việt?

XUÂN BA
 



 

;
;
.
.
.
.
.