Chính trị - Xã hội
Xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu mạnh, an bình, văn minh và hiện đại
(Tóm tắt Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành đảng bộ thành phố khóa xx tại đại hội lần thứ xxi đảng bộ thành phố do đồng chí Võ Công Trí, Phó Bí thư thường trực Thành ủy trình bày)
PHẦN THỨ NHẤT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI XX
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố, tập trung vào 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, gắn với thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW và Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị, thành phố đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng. (Nghe nội dung báo cáo chính trị tại đây)
1- Kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển
Tổng sản phẩm trên địa bàn ước tăng 9,7%/năm, bằng 1,6 lần năm 2010; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, đến năm 2015 ước đạt 62,65 triệu đồng, tương đương 2.908 USD, gần bằng 2 lần năm 2010; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP ước đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3% và nông nghiệp 2,1%.
Việc thực hiện đột phá về phát triển dịch vụ đạt kết quả rõ nét; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước tăng 12,1%/năm, đến năm 2015 gấp 1,8 lần năm 2010, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Hạ tầng thương mại phát triển nhanh theo quy hoạch. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 16,8%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tăng 15,4%/năm. Du lịch phát triển nhanh, từng bước khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn; tổng lượt khách đến thành phố ước tăng 20,1%/năm; thu nhập từ du lịch ước tăng 30,6%/năm. Các ngành dịch vụ công nghệ thông tin - truyền thông, vận tải, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục và đào tạo, y tế phát triển khá, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định, giá trị sản xuất ước tăng 10%/năm. Một số dự án được đầu tư mới và mở rộng quy mô sản xuất, góp phần hình thành các sản phẩm mới, tạo giá trị gia tăng cao, cải thiện tăng trưởng công nghiệp trong cả nhiệm kỳ. Thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao đạt kết quả bước đầu, công nghiệp công nghệ thông tin phát triển đa dạng và đồng bộ, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng. Thành phố đã tập trung xây dựng hạ tầng, ban hành chính sách ưu đãi đầu tư vào Khu Công nghệ cao, đồng thời tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng, rà soát, nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại 06 khu công nghiệp đang hoạt động.
Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cấu trúc lại toàn ngành, bước đầu hình thành một số mô hình chuyên canh, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; giá trị sản xuất ước tăng 4,5%/năm. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, dự kiến đến cuối năm 2015 hoàn thành, góp phần làm thay đổi nhanh diện mạo nông thôn, cải thiện đời sống nông dân. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển được đầu tư xây dựng, khai thác hiệu quả hơn, trong đó, hạ tầng cảng biển được đầu tư phát triển, hình thành cảng container có quy mô lớn, hiện đại của khu vực. Sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng ước tăng 14,5%/năm, đến cuối năm 2015 ước đạt 6,5 triệu tấn. Thành phố thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu khai thác hải sản, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, góp phần nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo.
Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, liên kết hợp tác trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng và có hiệu quả, góp phần thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao vị thế của thành phố trong khu vực và quốc tế. Việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện khá tốt. Tổng vốn đầu tư phát triển ước tăng 9,4%/năm.
Công tác quản lý, điều hành ngân sách được thực hiện chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả. Cơ cấu nguồn thu chuyển biến tích cực, trong đó thu nội địa (không kể thu tiền sử dụng đất) tăng 12,8%/năm. Thành phố đã cơ cấu lại chi, đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm; tổng chi ngân sách địa phương ước tăng 7,4%/năm.
2- Quản lý, thực hiện tốt công tác quy hoạch, huy động nhiều nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại
Thành phố đã chủ động nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; thường xuyên rà soát, cập nhật và khớp nối các đồ án quy hoạch; rà soát và hủy các dự án quy hoạch không khả thi, xử lý một bước đối với các dự án chậm triển khai gắn với việc giải quyết các quyền lợi cho nhân dân. Tiến hành rà soát quỹ đất, xử lý cơ bản nợ đất tái định cư từ năm 2014 trở về trước, giúp dân vùng dự án ổn định cuộc sống.
Thành phố tiếp tục thực hiện chủ trương tạo vốn từ quỹ đất, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương, quỹ đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các hình thức đầu tư BOT, BT... để đầu tư xây dựng, hoàn thành nhiều công trình có quy mô lớn, hiện đại, tạo điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan đô thị, mở rộng ranh giới đô thị thêm gần 2.000ha so với năm 2010, phù hợp với quy hoạch được phê duyệt. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, cấp điện, nước, điện chiếu sáng, cây xanh, xử lý rác thải... được đầu tư khá đồng bộ, tạo diện mạo mới cho thành phố theo hướng văn minh, hiện đại.
Công tác quản lý đô thị, xây dựng, tài nguyên, môi trường được thực hiện khá tốt, tạo chuyển biến tích cực về trật tự, mỹ quan đô thị. Công tác quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước đi vào nền nếp. Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường”, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực. Thành phố được các tổ chức trong nước và quốc tế khen thưởng và tặng nhiều giải thưởng lớn về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
3- Quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội; tăng cường xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn
Giáo dục và đào tạo được đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng; mạng lưới trường, lớp được xây dựng và phát triển theo quy hoạch; hoạt động đào tạo nghề được chú trọng. Việc thực hiện đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực cả về thu hút, đào tạo và bồi dưỡng, nhất là khu vực công. Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng; đã hình thành Quỹ phát triển khoa học và công nghệ; thành phố là địa phương đi đầu trong việc thực hiện khoán thí điểm đến sản phẩm khoa học công nghệ cuối cùng. Trên lĩnh vực y tế, thành phố tiếp tục tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, phát triển y tế chuyên sâu, bệnh viện chuyên khoa; hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; đẩy mạnh xã hội hóa và phát triển hệ thống y tế ngoài công lập..., góp phần thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển đa dạng và có nhiều tiến bộ. Hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Phong trào thể dục, thể thao được quan tâm đầu tư phát triển, nhất là thể thao thành tích cao.
Chương trình thành phố “5 không”, “3 có” gắn với công tác đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện tốt. Mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành, Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm, giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm, đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn của thành phố. Đến nay, trên địa bàn “Không có học sinh bỏ học” do hoàn cảnh khó khăn. Mục tiêu “Không có người lang thang xin ăn” được tăng cường với nhiều biện pháp xử lý tình trạng lang thang xin ăn biến tướng, bán hàng rong.
Thành phố kiên trì thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”, chú trọng công tác quản lý cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai, hạn chế phát sinh các điểm nóng về ma túy; có nhiều nỗ lực trong kiểm soát mục tiêu “Không có giết người để cướp của”. Đề án “Có nhà ở” được triển khai đồng bộ, đặc biệt trong 2 năm 2014 - 2015 đã tập trung hỗ trợ xây dựng, sửa chữa hơn 2.200 nhà ở cho các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân Làng Vân. Công tác quản lý, sử dụng nhà chung cư đi vào nền nếp. Đề án “Có việc làm” được quan tâm thực hiện, hằng năm giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu, gắn kết có hiệu quả với Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị”, triển khai “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, góp phần nâng cao dân trí, tạo nền tảng tinh thần, động lực mới cho phát triển.
Đời sống tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng, hoạt động tôn giáo thuận lợi, phù hợp với chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Công tác dân tộc được đẩy mạnh, chăm lo phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã miền núi nói chung, đồng bào dân tộc nói riêng.
4- Công tác quốc phòng, an ninh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và tổ chức thực hiện có hiệu quả
Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân không ngừng được củng cố. Công tác giáo dục và phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên; ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, biển, đảo được nâng lên. Quy hoạch và xây dựng các công trình quốc phòng, khu vực phòng thủ đảm bảo theo kế hoạch. Thực hiện chặt chẽ chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ thành phố, quận, huyện; diễn tập chiến đấu trị an cấp phường, xã; diễn tập vận hành cơ chế đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt.
An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo, không để bị động bất ngờ; triển khai phương án đối phó, xử lý có hiệu quả các tình huống kích động, gây rối, giữ vững ổn định, bảo đảm môi trường đầu tư và sinh hoạt của nhân dân. Các hoạt động tấn công, trấn áp các loại tội phạm, cùng với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì và triển khai sâu rộng, góp phần kiềm chế tội phạm, giảm các vụ trọng án. Trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực; tai nạn giao thông giảm trên cả 3 tiêu chí.
5- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
Tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với nhiều hình thức sáng tạo, đi vào nền nếp; việc “làm theo” từng bước đi vào chiều sâu. Thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các nhóm giải pháp theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Tinh thần tự phê bình, phê bình, xây dựng, tính tiên phong gương mẫu được phát huy; đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng được nâng cao. Công tác tư tưởng được coi trọng; đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần phòng chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Tổ chức bộ máy Đảng, hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động. Đã sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng, các ban chỉ đạo, các tổ chức phối hợp liên ngành; sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn và tổ chức đảng dưới phường, xã. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên; chất lượng sinh hoạt chi bộ được cải thiện. Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể trong trường học và khu vực ngoài Nhà nước được tăng cường. Phát triển đảng viên hằng năm tăng cả về số lượng và chất lượng. Công tác cán bộ có chuyển biến, quy trình tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ; triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tăng cường.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được chú trọng; thực hiện có kết quả chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm, góp phần ngăn chặn và hạn chế tiêu cực, sai phạm của cán bộ, đảng viên, giữ gìn đoàn kết thống nhất, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Công tác dân vận được tăng cường, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Công tác nội chính được quan tâm cả về tổ chức và hoạt động, phát huy hiệu quả bước đầu trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp, bảo vệ an ninh quốc gia và phòng, chống tham nhũng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, phát huy sức mạnh tập thể, mở rộng dân chủ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trách nhiệm của người đứng đầu được phát huy, chú trọng việc bám sát cơ sở, trực tiếp đối thoại, lắng nghe nhân dân, doanh nghiệp, từ đó đề ra chủ trương, định hướng xử lý kịp thời, đúng đắn, hợp lòng dân.
6- Công tác xây dựng chính quyền được đẩy mạnh; năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực quản lý Nhà nước được nâng lên
Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân thành phố tích cực đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tăng cường tiếp xúc, đối thoại và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Thành phố tập trung xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh, đặc biệt là hệ thống chính trị phường, xã. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực. Thành phố luôn thuộc nhóm dẫn đầu về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, Chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin, Chỉ số cải cách hành chính, Chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công...
Công tác cải cách tư pháp được chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX). Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, tranh tụng tại phiên tòa, thi hành án được nâng lên, khắc phục được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm, giảm số vụ án và thi hành án dân sự tồn đọng, kéo dài. Công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực, tập trung giải quyết việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài và các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, không để xảy ra điểm nóng. Công tác thanh tra phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương hành chính.
7- Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
Hệ thống tổ chức Mặt trận, các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đa dạng hóa các loại hình tập hợp quần chúng. Vai trò, vị thế của Mặt trận, các đoàn thể được phát huy trong các phong trào an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Hoạt động Mặt trận và các đoàn thể giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nhất là địa bàn vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Phát động, triển khai nhiều cuộc vận động, chương trình hành động, phong trào thi đua yêu nước mang lại hiệu quả thiết thực. Nâng cao năng lực giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp.
Đạt được kết quả trên có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là thành phố đã xây dựng được khối đoàn kết nhất trí cao trong Đảng bộ và sự đồng thuận sâu rộng toàn xã hội trong quá trình xây dựng, phát triển thành phố. Đã bám sát, vận dụng linh hoạt các chủ trương, đường lối của Trung ương; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương, lựa chọn đúng và chỉ đạo thực hiện có kết quả những vấn đề lớn, mang tính đột phá trong tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XX vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm. Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa thật bền vững. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp, còn 4 chỉ tiêu do Đại hội XX đề ra chưa đạt. Lĩnh vực du lịch chưa có nhiều sản phẩm độc đáo so với tiềm năng, lợi thế. Dịch vụ thương mại tuy phát triển nhưng chưa phát huy vai trò trung tâm bán buôn, phát luồng hàng hóa của khu vực. Năng lực, quy mô sản xuất công nghiệp chưa có bứt phá mạnh mẽ; tiến độ xây dựng hạ tầng Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung chậm. Kết quả thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp. Lợi thế về kinh tế biển chưa được phát huy tốt. Sức ảnh hưởng, lan tỏa và vai trò đầu tàu, trung tâm phát triển của khu vực chưa rõ nét.
Kết cấu hạ tầng đô thị tuy được đầu tư phát triển nhanh, nhưng có mặt chưa đồng bộ. Tiến độ đầu tư, xây dựng một số dự án, công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm còn chậm. Nhiều đồ án quy hoạch của thành phố, dự án của các nhà đầu tư qua nhiều năm không triển khai hoặc triển khai chậm, kéo dài, gây lãng phí tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, gây bức xúc trong nhân dân. Quá trình vận dụng, thực thi một số chủ trương, chính sách về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai có mặt còn khuyết điểm.
Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật chưa được đầu tư phát triển tương xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân. Văn minh đô thị chuyển biến chậm, có mặt còn bức xúc. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn một số hạn chế, chưa gắn kết chặt chẽ giữa thu hút và đào tạo, giữa đào tạo và sử dụng. Năng lực khoa học và công nghệ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn phức tạp. Tội phạm, tệ nạn xã hội, ma túy vẫn diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng chưa cơ bản.
Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đạt được kết quả như mong muốn. Công tác chính trị tư tưởng có lúc, có nơi còn bị động, chưa kịp thời định hướng dư luận trước những vấn đề xã hội quan tâm. Công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý còn thấp. Công tác kiểm tra, giám sát chưa bám sát nhiệm vụ chính trị; kiểm tra dấu hiệu vi phạm còn ít. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy và chính quyền cùng cấp có lúc chưa thật đồng bộ. Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp còn hạn chế, chưa đồng bộ. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể tuy có đổi mới nhưng có mặt còn hạn chế, chưa phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Những hạn chế nêu trên, bên cạnh nguyên nhân khách quan, chủ yếu do việc quán triệt, tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng chưa tốt. Cụ thể hóa, triển khai thực hiện 5 đột phá về kinh tế - xã hội chưa quyết liệt. Khả năng phân tích, dự báo còn hạn chế, đề ra nhiều chỉ tiêu quá cao. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tổ chức cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Những khuyết điểm đó trước hết thuộc về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XX, trực tiếp là của Ban Thường vụ Thành ủy. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XX xin nghiêm túc tự phê bình, cầu thị, lắng nghe ý kiến đóng góp của Đại hội và của nhân dân để tìm giải pháp khắc phục trong nhiệm kỳ đến.
Từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố trong 5 năm qua, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Một là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để tập trung lãnh đạo, điều hành; coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ; phát huy vai trò người đứng đầu và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tranh thủ sự lãnh đạo, giúp đỡ của Trung ương, các ban, bộ, ngành, Quân khu 5 và các địa phương bạn trong quá trình xây dựng, phát triển thành phố.
Hai là, thường xuyên xây dựng, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và đồng thuận sâu rộng trong toàn xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương.
Ba là, nắm vững và quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đề ra phải có lợi cho dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
5 năm qua, Đà Nẵng có thêm những bước phát triển mới về đô thị. Ảnh: N.THÀNH |
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
NHIỆM KỲ 2015 - 2020
Trong nhiệm kỳ đến, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải đoàn kết, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ, quyết liệt để thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu và những nhiệm vụ sau:
Mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là: Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh đồng thuận, huy động mọi nguồn lực xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, động lực phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của cả nước; phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.
Ba đột phá về phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ 2015 - 2020:
Một là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại; tập trung thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin.
Hai là, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có trọng điểm; xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh đô thị, xây dựng thành phố môi trường.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
1- Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao quy mô, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), Đề án tái cơ cấu kinh tế, Đề án phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển dịch vụ đến năm 2020, xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại dịch vụ, du lịch chất lượng cao, thành phố sự kiện của khu vực và cả nước. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; đôn đốc thi công, hoàn chỉnh các dự án hạ tầng thương mại chậm tiến độ; xúc tiến đầu tư Trung tâm thương mại chợ Cồn, chợ Hàn và các tuyến phố chuyên doanh. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, xúc tiến mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới, thị trường tiềm năng, gia tăng thị phần tại thị trường truyền thống. Triển khai hiệu quả Đề án phát triển du lịch giai đoạn 2016 - 2020, phấn đấu đến năm 2020, đón trên 8 triệu lượt khách. Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ vận tải, dịch vụ cảng- logistics, tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin - truyền thông, giáo dục - đào tạo, y tế chuyên sâu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Tập trung phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, nhất là các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin. Hoàn thành cơ bản kết cấu hạ tầng và có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung, Công viên phần mềm số 2, Khu đô thị công nghệ FPT. Có chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ, các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị gia tăng cao. Tiếp tục rà soát, thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án trong và ngoài các khu công nghiệp. Quy hoạch, kêu gọi đầu tư xây dựng 1 - 2 cụm công nghiệp để bố trí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tăng cường nguồn lực đầu tư để phát triển Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển. Tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống cảng biển, phát triển Cảng Đà Nẵng trở thành cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (loại I); phấn đấu sản lượng hàng hóa qua khu vực Cảng Đà Nẵng năm 2020 đạt 10 triệu tấn. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hiện đại. Tiếp tục đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp đẩy mạnh thu ngân sách đi đôi với nuôi dưỡng nguồn thu, phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5-8%/năm. Bố trí chi ngân sách phù hợp với khả năng cân đối và yêu cầu phát triển, ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển và các nhiệm vụ trọng yếu.
2- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý đô thị; tiếp tục đầu tư phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, có môi trường sống tốt
Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, không gian kiến trúc, môi trường đô thị thành phố đến năm 2020; quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Rà soát, khớp nối, bổ sung quy hoạch phát triển không gian đô thị thành phố theo hướng mở rộng về phía Đông Bắc, phía Tây (Tây Nam, Tây Bắc) và phía Nam thành phố. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai; rà soát, xóa bỏ hoặc kiến nghị xóa bỏ các dự án quy hoạch treo, kiên quyết thu hồi đất dự án của các nhà đầu tư chậm triển khai.
Phối hợp đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư và triển khai các công trình, dự án đã xác định trong Nghị quyết 33-NQ/TW, Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục nâng cấp, cải tạo mạng lưới giao thông nội thị, phát triển hệ thống giao thông tĩnh, nâng cấp hệ thống giao thông công cộng gắn kết với các công trình ngầm. Đẩy nhanh hiện đại hóa và ngầm hóa đường dây điện, dây điện thoại, cáp viễn thông, cáp truyền hình tại khu vực trung tâm và một số tuyến đường lớn. Nghiên cứu thiết kế kiến trúc tổng thể, cải tạo cảnh quan hai bờ sông Hàn; nâng cấp kiệt, hẻm, cải tạo nhà ở xuống cấp trong khu vực trung tâm và thảm nhựa các tuyến đường trong các khu dân cư mới. Tăng cường quản lý trật tự đô thị, quản lý quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, quảng cáo; thực hiện có hiệu quả Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”, Chương trình hành động của thành phố về ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Dự án Phát triển bền vững.
3- Thực hiện linh hoạt, đồng bộ cơ chế, chính sách; tăng cường thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển
Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Có chính sách thu hút các tập đoàn, tổng công ty lớn thành lập hoặc chuyển hội sở chính đến thành phố; khuyến khích, hỗ trợ phát triển một số doanh nghiệp “đầu đàn”, có quy mô lớn, có sản phẩm chủ lực, mang thương hiệu thành phố. Chú trọng triển khai chương trình khởi nghiệp. Phối hợp các bộ, ban, ngành Trung ương cụ thể hóa triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về một số cơ chế ưu đãi đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố. Tích cực phối hợp với các địa phương đề xuất Trung ương ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù để tăng cường liên kết, phát triển vùng; khai thác hiệu quả chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mêkông và Hành lang kinh tế Đông Tây; xúc tiến triển khai dự án Hành lang kinh tế Đông Tây 2...
Chủ động phối hợp tổ chức thành công các sự kiện mang tầm khu vực và quốc tế tại Đà Nẵng, như: Đại hội Thể thao bãi biển Châu Á lần thứ 5 năm 2016, Tuần lễ cấp cao APEC năm 2017... Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư. Tranh thủ tối đa và quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình trọng điểm, quy mô lớn. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng quốc tế, kiên quyết đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo.
4- Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội; tập trung xây dựng văn hóa, văn minh đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân
Triển khai có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về phát triển văn hóa và Chỉ thị 43-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”. Xây dựng môi trường, đời sống văn hóa và con người Đà Nẵng phù hợp với văn minh đô thị. Tăng cường đầu tư cho hoạt động văn hóa, văn học - nghệ thuật; tập trung xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm và các thiết chế văn hóa cơ sở. Tăng cường vai trò định hướng thông tin, quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phấn đấu tăng tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia các cấp học, thực hiện dạy học 2 buổi/ngày cho 100% học sinh tiểu học. Xây dựng Đại học Đà Nẵng xứng đáng là đại học trọng điểm quốc gia; tạo điều kiện phát triển các trường quốc tế chất lượng cao, các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố. Phát triển dạy nghề và thị trường lao động đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và hội nhập quốc tế.
Tạo chuyển biến mới trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện để phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Tăng đầu tư Nhà nước cho Quỹ phát triển khoa học công nghệ; gắn kết nghiên cứu, đào tạo với sản xuất - kinh doanh theo phương thức nghiên cứu theo đơn đặt hàng và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu, phát triển đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu. Tiếp tục đầu tư phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm khám, chữa bệnh chất lượng cao. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân đạt 100% vào năm 2020. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thể dục - thể thao; chuẩn bị tốt lực lượng để tham gia và cải thiện thành tích thi đấu tại Đại hội Thể dục - Thể thao toàn quốc lần thứ VIII - 2018.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có” gắn với các chính sách an sinh xã hội đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xây dựng và triển khai đồng bộ Đề án giảm nghèo theo chuẩn mới. Duy trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú.
5- Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận. Xây dựng lực lượng vũ trang thành phố cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cả về số lượng, chất lượng và sức chiến đấu cao; thực hành tốt các phương án sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020”, gắn với Luật Biên giới quốc gia, Luật Biển Việt Nam. Nâng cao chất lượng xây dựng nền biên phòng toàn dân, xây dựng lực lượng biên phòng vững mạnh. Tích cực đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa.
Tiếp tục củng cố thế trận an ninh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; tăng cường đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm và đẩy lùi tệ nạn xã hội. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về an ninh trật tự, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, kiềm chế, giảm tai nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí.
6- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có chiều sâu việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, Chỉ thị 29-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Kiên quyết đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường quản lý văn hóa, văn nghệ, xuất bản, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở phù hợp với đặc điểm đô thị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị, mối quan hệ trong từng tổ chức và giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; kiện toàn bộ máy tinh gọn, đồng bộ, hiệu quả, sát hợp với chức năng, nhiệm vụ và tinh giản biên chế. Chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường công tác Đảng trong trường học, công tác xây dựng Đảng và đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Nâng cao chất lượng đánh giá tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường công tác phát triển đảng viên, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng.
Phát huy dân chủ, thực hiện công khai, tiếp tục đổi mới tư duy trong công tác cán bộ. Chú trọng tính liên tục, kế thừa trong công tác cán bộ, khắc phục tình trạng hụt hẫng, bị động, điều chỉnh sự mất cân đối về cán bộ trẻ, cán bộ nữ, xây dựng đội ngũ cán bộ dự nguồn cho các nhiệm kỳ tiếp theo. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các đề án phát triển nguồn nhân lực, gắn kết hiệu quả giữa thu hút, đào tạo và sử dụng dựa trên định hướng phát triển và nhu cầu nhân lực của thành phố.
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dân vận theo Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân và sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chú trọng tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước.
Thực hiện tốt công tác nội chính, trọng tâm là tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng; tăng cường thanh tra, kiểm tra, điều tra để phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, sát với tình hình thực tiễn, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, liên quan đến đời sống nhân dân.
7- Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; đẩy mạnh cải cách tư pháp, thanh tra, phòng, chống tham nhũng
Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp. Hình thành bộ máy quản lý Nhà nước theo hướng chính quyền đô thị, tập trung và chuyên môn hóa một số lĩnh vực về hoạt động quản lý đô thị. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền hợp lý. Nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa, giảm và hạn chế thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, án hủy, cải sửa, oan, sai. Đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác quản lý Nhà nước; giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân.
8- Phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh đạo và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong việc lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thực chất, bảo đảm công khai, minh bạch. Chăm lo xây dựng tổ chức Mặt trận, đoàn thể từ thành phố đến cơ sở vững mạnh; chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ, tiêu chuẩn hóa cán bộ chuyên trách, bố trí người có năng lực, uy tín làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nhất là nhân sĩ, trí thức, tín đồ và chức sắc các tôn giáo, đồng bào các dân tộc và người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Chú trọng triển khai thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố kêu gọi, toàn Đảng bộ, toàn quân và dân thành phố khẳng định quyết tâm, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn đấu xây dựng Đảng bộ thành phố trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh đồng thuận, huy động mọi nguồn lực để phát triển thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
* Nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực. Nổi bật là thành phố luôn giữ được ổn định, nội bộ đoàn kết, nhân dân đồng thuận. Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; chất lượng tăng trưởng một số mặt được cải thiện. Hoạt động đối ngoại được mở rộng, vị thế thành phố ngày càng được nâng cao. Việc thực hiện năm đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX đạt được một số kết quả khả quan. Nhiều công trình trọng điểm quy mô lớn được hoàn thành đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới về đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển khá, nhiều chính sách an sinh xã hội gắn với chương trình thành phố “5 không”, “3 có” được triển khai có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng. Công tác cải cách hành chính, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp có chuyển biến rõ nét. Công tác phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp được quan tâm thực hiện. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần củng cố và làm nổi bật mối quan hệ cốt lõi giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhân dân theo hướng “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ”. |
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020: - Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân 8 - 9%/năm. - GRDP bình quân đầu người ước đạt 4.000 - 4.500 USD. - Cơ cấu GRDP: Dịch vụ 63 - 65%; Công nghiệp - Xây dựng 35 - 37% và Nông nghiệp 1 - 2%. - Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,5 - 10,5%/năm. - Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10 - 11%/năm (trong đó, công nghiệp tăng 10,5 - 11,5%/năm). - Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân 2 - 3%/năm. - Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 15 - 16%/năm. - Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5 - 8%/năm; tổng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân 2 - 3%/năm. - Tổng vốn đầu tư phát triển tăng bình quân 9 - 10%/năm. - Giảm tỷ suất sinh 0,1‰/năm. - Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 50 - 55%; tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm bình quân 4 - 5%/năm. - Hoàn thành Đề án giảm nghèo của thành phố giai đoạn 2016-2020. - Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 95 - 100%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 95 - 98%. - Hằng năm phát triển trên 2.000 đảng viên mới, không còn tổ chức cơ sở đảng yếu kém. |
(*) Tít bài do Báo Đà Nẵng đặt.