Chính trị - Xã hội

Sức sống mãnh liệt của Tuyên ngôn Độc lập

09:49, 01/09/2016 (GMT+7)

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Trong đời, Người đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội ngày 2-9-1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội ngày 2-9-1945.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là một trong những sự kiện sáng chói nhất trong thế kỷ XX. Bởi vì, chính với bản Tuyên ngôn đó, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được khai sinh, khẳng định thắng lợi trọn vẹn của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao hy sinh xương máu của đồng bào và những người con anh dũng của Việt Nam. Nó được phôi thai từ bản Yêu sách tám điểm năm 1919, Chương trình Việt Minh năm 1941 và của những bản tuyên ngôn khác của các vị tiền bối. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử, mà điểm sáng chói là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc; là trí tuệ và bản lĩnh văn hóa Việt Nam với khát vọng cháy bỏng là đấu tranh vì nền độc lập dân tộc và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Tuyên ngôn Độc lập đã chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế hàng nghìn năm và chế độ thực dân gần trăm năm không kém phần chuyên chế, đặt cơ sở cho việc xây dựng một Nhà nước hợp hiến ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố rõ ràng, dứt khoát với nhân dân thế giới rằng dân tộc Việt Nam đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Với Tuyên ngôn Độc lập, nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Với thành quả cách mạng từ nghị lực phi thường và quyết tâm cao cả “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả những đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Một dân tộc “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, hiên ngang, kiêu hãnh tự tay xây dựng lại cơ đồ. Chúng ta không những tự hào với thành quả cách mạng do chính chúng ta giành lấy từ bọn xâm lược và tay sai, mà còn có quyền tự hào chính đáng góp phần vào sự tiến bộ, văn minh của nhân loại, vào nền pháp lý quốc tế. Tư tưởng xuyên suốt trong Tuyên ngôn Độc lập là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Hồ Chí Minh đã gắn quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc với quyền cơ bản tự do của con người thành quyền dân tộc cơ bản, bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nó trở thành phạm trù của luật pháp quốc tế hiện đại. Đây là nguyên tắc pháp lý về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc trên thế giới, với ý nghĩa là “quyền của tạo hóa, là lẽ phải, điều hiển nhiên không ai có thể chối cãi và xâm phạm được”.

Tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc ra Tuyên ngôn Nhân quyền. Mười hai năm sau, tháng 12-1960, ra Tuyên ngôn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Mười năm sau đó (12-1970) ra Nghị quyết về Chương trình hành động nhằm thi hành toàn diện bản tuyên ngôn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Trong khi đó, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 đã tuyên bố và khẳng định với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới về quyền dân tộc cơ bản, một khái niệm khoa học thuộc phạm trù luật pháp quốc tế hiện đại mà từ đó đến nay luôn luôn được thế giới thừa nhận.

Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh mang giá trị toàn cầu và nó luôn có giá trị thời đại, bởi vì nó hướng tới tương lai, ông Hans D’Orville, Phó Tổng Giám đốc UNESCO phát biểu tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris ngày 14-5-2010 nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “cuộc đời hoạt động chính trị của Người trước hết nhằm đấu tranh cho quyền con người và quyền các dân tộc. Ngày 2-9-1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tuyên ngôn của Người bắt đầu bằng chính những từ được trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Quan điểm của Người đã nói trước được điều mà 15 năm sau, vào năm 1960, Liên Hợp Quốc đã đưa vào trong tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa”.

Cần phải nói thêm rằng Tuyên ngôn Độc lập Mỹ viết “tất cả mọi người” thì cần phải hiểu chính xác lịch sử nước Mỹ như nhà nghiên cứu người Mỹ Lady Borton phân tích: “Khi Tuyên ngôn của Mỹ viết năm 1775 “mọi đàn ông” (all men) là “đàn ông da trắng có sở hữu”, mà “sở hữu” lúc đó thường là nô lệ da đen. Đàn ông da đen có quyền được đi bầu 95 năm sau đó (năm 1870); phụ nữ được đi bầu 50 năm sau nữa (năm 1920). Khác với Tuyên ngôn của Mỹ, “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh bắt đầu bằng câu “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng…” (All people are created equal…)

71 năm trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, quyền cơ bản của con người và quyền của các dân tộc. Ngày nay  nhân loại đang sống trong thế giới toàn cầu hóa. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng chiêu bài “nhân quyền”,  hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Tuy nhiên, với bản Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và nội dung hai bản Công ước quốc tế về nhân quyền năm 1966 cho thấy Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã đạt được những thành quả to lớn trong việc thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và phổ biến của con người, có nhiều cống hiến trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ quyền con người. Những thành tựu đó là dựa trên tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh mà 71 năm trước đã lung linh tỏa sáng trong Tuyên ngôn Độc lập.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013. Trong Lời nói đầu của Hiến pháp có viết: “Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Hiến pháp năm 2013 là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, chứa đựng sức sống và linh hồn của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945.

PGS.TS Bùi Đình Phong

.