Trên số báo hôm nay (8-6) Báo Đà Nẵng đăng toàn văn dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI trình Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2020-2025, với chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; tăng cường sức mạnh đồng thuận; phát huy các động lực tăng trưởng; xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại”; đồng thời đăng trên Báo Đà Nẵng Online.
Mọi ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và nhân dân xin gửi về Báo Đà Nẵng, số 33 Lê Lợi, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hoặc qua địa chỉ email: tsbaodanang@gmail.com.
Các ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và nhân dân sẽ được đăng tải trên chuyên mục Góp ý dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI trình Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố, nhiệm kỳ 2020-2025 của Báo Đà Nẵng hằng ngày và Báo Đà Nẵng Online.
Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố, nhiệm kỳ 2020-2025 được tiến hành vào thời điểm đất nước trải qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề để thành phố cùng cả nước phát triển nhanh và bền vững. Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, chương trình hành động của nhiệm kỳ 2020-2025; thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII, nhiệm kỳ 2020-2025 và bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội XIII của Đảng. Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ thành phố là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại đối với chặng đường phát triển của Đà Nẵng trong thập niên thứ 3 của thế kỷ XXI.
PHẦN THỨ NHẤT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ XXI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ, NHIỆM KỲ 2015-2020
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố, bên cạnh những thuận lợi cơ bản1, thành phố đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế thành phố tăng trưởng khá nhưng quy mô nhỏ và chưa thật sự bền vững; các cơ chế, chính sách của Trung ương đối với Đà Nẵng vẫn chưa thực sự tạo điều kiện để phát huy vai trò một thành phố động lực khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Sự thay đổi chiến lược của các nước lớn2; thiên tai, dịch bệnh, nhất là đại dịch Covid-19, cùng nhiều khó khăn, vướng mắc mới nảy sinh3, đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội lần thứ XII của Đảng và Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố đề ra; quyết liệt khắc phục những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm; tham mưu Trung ương ban hành cơ chế thuận lợi, chủ động giải quyết những vấn đề có tính cơ bản, bền vững để tạo động lực tăng trưởng mới4 và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
- Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng bình quân 7,3%/năm5 (NQ: 8-9%/năm).
- Năm 2020, GRDP bình quân đầu người ước đạt 4.300-4.400 USD (NQ: 4.000-4.500 USD6).
- Cơ cấu GRDP đến năm 2020 ước đạt: Dịch vụ 64,6%; công nghiệp - xây dựng 22,3%; nông nghiệp 1,7%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 11,4% (NQ: Dịch vụ: 63-65%; công nghiệp - xây dựng: 35-37% và nông nghiệp: 1-2%)7.
- Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ ước tăng 7,8%/năm; công nghiệp - xây dựng ước tăng 5,7%/năm; nông nghiệp ước tăng 3%/năm.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tăng 7,8%/năm (NQ: 15-16%/năm)
- Tổng thu ngân sách nhà nước ước tăng 15,5%/năm (NQ: 5-8%/năm)
- Tổng vốn đầu tư phát triển tăng 5,3%/năm (NQ: 9-10%/năm).
- Năm 2020, giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,12‰ (NQ: 0,1‰).
- Năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ước đạt 55% (NQ: 50-55%), tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm ước đạt 4,2%/năm (NQ: 4-5%/năm).
- Tỷ lệ hộ nghèo còn sức lao động theo chuẩn thành phố đến cuối năm 2020 giảm còn 2,04%8.
- Đến cuối năm 2020, tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch đạt 100% (NQ: 95-100%); tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100% (NQ: 95-100%); tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom đạt 95% (NQ: 95-98%).
- Bình quân hằng năm phát triển 1.837 đảng viên mới, đạt 92% (NQ: 2.000 đảng viên).
Như vậy, có 8/12 chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt nghị quyết (không kể 3 chỉ tiêu về giá trị sản xuất9) và 4 chỉ tiêu chưa đạt: Tổng sản phẩm trên địa bàn - GRDP; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn và chỉ tiêu phát triển đảng viên hằng năm.
II. THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Các lĩnh vực kinh tế
1.1. Kinh tế thành phố duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá, các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ cao được chú trọng phát triển.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) giai đoạn 2015-2020 ước tăng bình quân 7,3%/năm, với quy mô GRDP (giá hiện hành) ước đạt khoảng 120.161 tỷ đồng, gấp 1,6 lần so với năm 2015. GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) năm 2020 ước đạt 103,6 triệu đồng (4.434 USD), gấp 1,4 lần năm 2015. Cơ cấu kinh tế theo ngành chuyển dịch đúng định hướng Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp; cơ cấu GRDP năm 2020 ước đạt: Dịch vụ 64,6%; công nghiệp - xây dựng 22,3%; nông nghiệp 1,7%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 11,4%. Cơ cấu các thành phần kinh tế giữ đúng định hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các loại hình doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế10.
- Việc thực hiện đột phá về phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại đạt nhiều kết quả. Giá trị gia tăng khu vực dịch vụ ước tăng bình quân 7,8%/năm, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế thành phố.
+ Dịch vụ du lịch tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh quốc tế và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Thành phố tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp trở thành sản phẩm du lịch chủ lực; thu hút nhiều dự án du lịch lớn, tầm cỡ, hình thành hệ thống cơ sở lưu trú chất lượng cao quốc tế do các tập đoàn khách sạn hàng đầu thế giới trực tiếp quản lý11. Các sự kiện lớn mang tầm quốc tế được thành phố đăng cai tổ chức thường xuyên; lễ hội pháo hoa quốc tế, các sự kiện lễ hội thường niên được nâng cấp, đổi mới; các sản phẩm vui chơi giải trí, mua sắm ngày càng phong phú, đa dạng12.
Tiềm năng du lịch sinh thái, đường thủy nội địa, cộng đồng từng bước được khai thác13. Thành phố tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, mở các đường bay quốc tế trực tiếp đi và đến Đà Nẵng14; thành lập đại diện du lịch tại Hàn Quốc, Trung Quốc; ký kết Chương trình hợp tác, liên kết với nhiều địa phương trong nước và các cơ quan quản lý du lịch và doanh nghiệp du lịch quốc tế. Tổng lượt khách đến thành phố giai đoạn 2015-2020 tăng bình quân 15,9%/năm; số lượt khách cơ sở lưu trú phục vụ tăng bình quân 19,1%/năm; doanh thu dịch vụ lưu trú và lữ hành tăng bình quân 17,9%/năm.
+ Dịch vụ thương mại duy trì tăng trưởng ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và đa dạng của người dân và khách du lịch. Hạ tầng thương mại cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển, hệ thống các chợ, siêu thị, tuyến phố chuyên doanh được đầu tư theo hướng văn minh, hiện đại15. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ giai đoạn 2015-2020 ước tăng bình quân 14,1%/năm (kế hoạch tăng 17-18%), trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng bình quân 13,4%/năm.
Hoạt động xúc tiến thương mại được chú trọng, nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu được tập trung triển khai. Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam được tổ chức với nhiều hình thức, đạt kết quả tích cực. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2015-2020 ước tăng bình quân 7,8%/năm16. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thủy sản - nông - lâm năm 2020 ước đạt tỷ lệ tương ứng là 87,7% - 11,5% - 0,8%17; đến nay, hàng hóa của doanh nghiệp Đà Nẵng xuất khẩu đến 120 quốc gia, vùng lãnh thổ18.
+ Các ngành dịch vụ khác tiếp tục phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu đời sống, sản xuất và thương mại quốc tế, từng bước tạo lập vai trò trung tâm của khu vực và cả nước. Trong đó:
Dịch vụ vận tải phát triển mạnh về quy mô và hình thức, nhất là đường hàng không, đáp ứng nhu cầu giao thương, đi lại của nhân dân và du khách. Giai đoạn 2015-2020, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 9%/năm, khối lượng luân chuyển hành khách tăng 10,9%/năm và doanh thu vận tải tăng 6,6%/năm.
Thành phố đã ban hành triển khai Đề án tăng cường vận tải hành khách công cộng, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng logistics đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tích cực xúc tiến các dự án đầu tư xây dựng cảng Liên Chiểu, Hành lang kinh tế Đông Tây 2, quốc lộ 14G, di dời ga đường sắt; phối hợp đẩy nhanh tiến độ triển khai hoàn thành các dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đường Hồ Chí Minh (đoạn La Sơn - Túy Loan), góp phần hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của thành phố và các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên.
Dịch vụ bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin phát triển mạnh, doanh thu ngành thông tin - truyền thông tăng bình quân 9,6%/năm, kim ngạch xuất khẩu phần mềm tăng bình quân 15,6%/năm. Hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông được đầu tư đồng bộ, hiện đại và nâng cấp thường xuyên19. Thành phố 11 năm liền dẫn đầu cả nước về Chỉ số sẵn sàng ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (2009-2019).
Các dịch vụ tài chính - ngân hàng phát triển đa dạng về loại hình hoạt động và hình thức cung ứng sản phẩm20, đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân. Huy động vốn tăng trưởng mạnh, ước đạt 546,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3%/năm, cho vay tăng 20,9%/năm.
Các dịch vụ khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế tiếp tục phát triển mạnh với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, đóng góp ngày càng tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
- Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng ổn định, công nghiệp công nghệ thông tin tăng trưởng tốt, đột phá về thu hút đầu tư công nghiệp công nghệ cao có nhiều khởi sắc21. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp bình quân 6,64%/năm. Điểm nổi bật là, bên cạnh các khu công nghiệp đang hoạt động22, đã đầu tư hoàn thành cơ bản hạ tầng giai đoạn 1 và đạt 65% giai đoạn 2 Khu công nghệ cao thành phố23; khánh thành Khu công nghệ thông tin giai đoạn 1, phê duyệt chủ trương đầu tư giai đoạn 2 và Khu công viên phần mềm số 2; thành lập 3 khu công nghiệp mới24 và một số cụm công nghiệp25, góp phần giải quyết nhu cầu mặt bằng sản xuất và thu hút đầu tư, nhất là trên lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin và phát triển kinh tế số26. Ngành công nghiệp hỗ trợ dần phát triển, thu hút nhiều dự án đầu tư mới, đầu tư bổ sung, trong đó doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng27. Các ngành nghề truyền thống được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển28.
- Kinh tế biển và cảng biển có bước phát triển, hạ tầng được đầu tư xây dựng và khai thác hiệu quả. Hoàn thành dự án mở rộng cảng Tiên Sa giai đoạn 2, góp phần phát triển đồng bộ hệ thống logistics, nâng năng lực bốc dỡ lên 10-12 triệu tấn/năm vào năm 2020. Sản lượng hàng hóa qua cảng ước đạt 43,1 triệu tấn, tăng bình quân 9,3%/năm. Đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng cảng Liên Chiểu; tích cực kêu gọi đầu tư một số trung tâm logistics trên địa bàn thành phố29. Phát triển kinh tế thủy sản bền vững được quan tâm, cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá được đầu tư đồng bộ30; đã ban hành và thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ đặc thù phát triển khai thác xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo31, nâng cao năng lực khai thác xa bờ, tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ chế biến và tiêu dùng thủy sản trên địa bàn thành phố32.
- Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cơ cấu lại sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực, đặc trưng, phục vụ du lịch và đô thị. Thành phố đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất theo hướng chuyên canh, tập trung, đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ33, với 6 vùng quy hoạch34; tổ chức lại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường gắn với phòng, chống dịch bệnh theo chuỗi thực phẩm an toàn.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, tạo chuyển biến trong phát triển kinh tế nông thôn, đến năm 2020, có 11/11 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2015-2020, có 12 thôn được công nhận thôn kiểu mẫu, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ theo hướng đô thị và sinh thái. Thực hiện tốt Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2015-2020, đã giao 1.028,23 ha rừng cho đồng bào dân tộc và hỗ trợ trồng rừng kinh tế, trồng rừng cây gỗ lớn, rừng đặc dụng, phòng hộ35. Năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 47%, cao hơn bình quân cả nước là 42%. Giá trị tăng thêm lĩnh vực nông nghiệp ước tăng 3%/năm.
Công tác quản lý điều hành thu, chi ngân sách được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định. Cơ cấu nguồn thu chuyển dịch theo hướng bền vững, giai đoạn 2015-2020 tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện 129.642,3 tỷ đồng, đạt 107,1% dự toán; tăng bình quân 15,5%/năm36. Hầu hết nguồn tăng thu, tiết kiệm chi hằng năm được ưu tiên bổ sung vốn đầu tư phát triển, bảo đảm bố trí dự toán chi đầu tư phát triển đạt từ 40% trở lên so với tổng chi cân đối ngân sách địa phương. Tăng chi ngân sách địa phương ước bình quân 19,8%/năm. Thành phố tiếp tục chỉ đạo tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách, thực hiện đầy đủ các kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước; tiếp tục triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp gắn với lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Thực hiện công khai ngân sách nhà nước theo đúng quy định. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường ngăn ngừa thất thoát, lãng phí trong chi tiêu ngân sách37.
1.2. Quy hoạch phát triển, đầu tư xây dựng được xác lập và điều chỉnh theo hướng bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị Đà Nẵng trong giai đoạn mới
Tiếp tục thực hiện hiệu quả quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, không gian kiến trúc38; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 203039; hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 và triển khai lập Quy hoạch thành phố theo Luật Quy hoạch.
Tập trung xây dựng điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gắn với Thiết kế chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) nhằm đảm bảo phát triển thành phố nhanh, bền vững. Thực hiện quy hoạch chi tiết cảnh quan hai bên bờ sông Hàn để tạo điểm nhấn cảnh quan đô thị, phát triển chuỗi du lịch đường sông và 7 đồ án quy hoạch phân khu40.
Triển khai lập thiết kế đô thị khu vực ven biển tại các quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Thanh Khê và Liên Chiểu và khu vực đô thị cũ tại các quận Hải Châu, Thanh Khê và một phần Sơn Trà, Cẩm Lệ; định hướng phát triển khu vực ven đô thị và nông thôn về không gian phát triển41. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh, khắc phục những bất cập trong quy hoạch, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, phục vụ tốt hơn cho cộng đồng. Chú trọng thực hiện công tác kiểm tra, xử lý các dự án chậm đưa đất vào sử dụng42. Chỉ đạo điều chỉnh quy hoạch dự án Khu du lịch sinh thái Nam Ô; rà soát tình hình triển khai các dự án ven biển, đầu tư một số lối xuống biển, công viên, đường đi bộ và xe đạp dọc bãi biển… Xây dựng quy định quản lý đặc biệt đối với bán đảo Sơn Trà.
Xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp và chỉnh trang đô thị được tập trung chỉ đạo, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị tiếp tục được nâng cấp và cải thiện, cơ sở hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư, diện mạo đô thị có bước phát triển mới. Các công trình trọng điểm được đẩy nhanh tiến độ thi công, đưa vào sử dụng hiệu quả, nhất là việc triển khai thực hiện các dự án động lực, trọng điểm và các dự án dư luận xã hội quan tâm theo hướng phục vụ tốt cộng đồng và sự phát triển bền vững của thành phố (xem Phụ lục 2).
Đề ra các giải pháp để đẩy nhanh công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng phục vụ thi công các dự án; hợp thửa các lô đất tái định cư có vị trí hai mặt tiền và các lô liền kề để xây dựng công trình công cộng, thiết chế văn hóa, công trình phúc lợi xã hội phục vụ dân sinh, tạo quỹ đất để phục vụ kêu gọi đầu tư. Vận hành Cổng thông tin đất đai thành phố, công khai thông tin thửa đất đai đến tổ chức, công dân và công khai, minh bạch quỹ đất đấu giá trên địa bàn để kêu gọi đầu tư. Quỹ đất đai được sử dụng có hiệu quả cho yêu cầu phát triển bền vững.
Việc thực hiện Đề án Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường - một nội dung trong đột phá thứ hai - đạt được những kết quả tích cực. Các dự án trọng điểm về môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được ưu tiên triển khai, việc lập Quy hoạch chất thải rắn đô thị, Quy hoạch thoát nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045 được thực hiện, đảm bảo mục tiêu người dân được đáp ứng các điều kiện cơ bản về nước sạch, dịch vụ vệ sinh môi trường.
Hệ thống cấp nước khu vực đô thị đạt trên 97%, khu vực nông thôn đạt trên 70%, công tác thu gom chất thải rắn trong đô thị đạt trên 95%, diện tích cây xanh đô thị đạt khoảng 7,5m2/người. Hạ tầng kỹ thuật đô thị, môi trường, thoát nước mưa, thu gom và xử lý nước thải trên toàn thành phố, nhất là khu vực ven biển phía đông và vịnh Đà Nẵng được đầu tư ngày càng hoàn thiện. Các điểm nóng về ô nhiễm môi trường được tập trung xử lý, góp phần cải thiện đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng43. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách thành phố giai đoạn 2015-2020 là 43.481,179 tỷ đồng44.
1.3. Thực hiện linh hoạt, đồng bộ các cơ chế, chính sách; tăng cường thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển
Thành phố tập trung triển khai nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, nhất là vốn ODA, FDI, gắn với phong trào khởi nghiệp45. Nhiều sự kiện lớn, nhất là Tuần lễ Cấp cao APEC 2017, các diễn đàn đầu tư, Tọa đàm mùa Xuân được tổ chức thành công. Chủ đề Năm đẩy mạnh thu hút đầu tư, tạo chuyển biến mạnh về tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, xúc tiến đầu tư và phát triển du lịch46.
Tiếp tục triển khai Đề án Phát triển doanh nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020, ban hành Đề án Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư47; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng48; chuẩn bị điều kiện hạ tầng, kỹ thuật và quỹ đất để tăng cường thu hút đầu tư, nhất là thu hút doanh nghiệp có quy mô lớn, có sản phẩm chủ lực.
Hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế diễn ra khá sôi động và có bước khởi sắc. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cơ bản hoàn thành. Khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn có bước phát triển mới; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của thành phố49. Giai đoạn 2015-2020, đã xúc tiến, thu hút và quản lý 5 dự án ODA với tổng vốn 455,21 triệu USD50; cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 19.619 doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện, tổng vốn điều lệ đăng ký đạt 92.297 tỷ đồng51; thu hút 52.416,9 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước và 1.259,54 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài52.
Công tác đối ngoại, hoạt động tuyên truyền, thông tin đối ngoại trên cả ba lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa được đẩy mạnh. Thành phố đã tổ chức thành công nhiều hoạt động đối ngoại lớn; tích cực gia nhập các mạng lưới, diễn đàn của khu vực và thế giới53; thực hiện tốt nội dung hợp tác đã ký kết với các địa phương trong và ngoài nước, đảm bảo chất lượng và hiệu quả hợp tác phát triển. Hằng năm, thành phố đón tiếp khoảng 600 đoàn khách quốc tế, góp phần thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị và mở ra nhiều chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực như xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, y tế, giáo dục, môi trường54.
Uy tín và hình ảnh thành phố được quảng bá hiệu quả, tạo ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế thông qua việc đăng cai các sự kiện, hội nghị, hội thảo, diễn đàn quan trọng, có quy mô 55. Bên cạnh đó, thành phố đã chủ trì, phối hợp với các địa phương đề xuất Trung ương xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù để tăng cường liên kết, phát triển vùng. Chủ động đầu tư hạ tầng kinh tế biển, du lịch, thương mại, logictis theo hướng kết nối vùng. Nhiều công trình, dự án quan trọng, quy mô lớn được đầu tư xây dựng, góp phần rút ngắn khoảng cách địa lý, tăng cường liên kết phát triển kinh tế khu vực56.
Tổng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2015-2020 huy động ước đạt 193,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%/năm, năm 2020 ước đạt 42.135 tỷ đồng, gấp 1,2 lần so với năm 2016. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển chuyển dịch theo đúng định hướng57, năm 2020 ước tỷ trọng vốn đầu tư phát triển chiếm 36,7% GRDP thành phố. Thành phố thực hiện nhiều nội dung nhằm khắc phục những hạn chế, sai phạm theo Kết luận số 2852/KL-TTCP của Thanh tra Chính phủ, đến ngày 12/12/2019, đã thu hồi vào ngân sách 897 tỷ đồng tiền sử dụng đất thất thu và giảm 10%58.
2. Văn hóa - xã hội tiếp tục đạt nhiều tiến bộ, chất lượng giáo dục và đào tạo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được nâng cao; giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội đạt kết quả tốt; đời sống nhân dân được cải thiện
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo được quan tâm phát triển; chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng cao với nhiều đổi mới trong công tác quản lý, dạy và học ở các bậc, ngành học, góp phần phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao thành phố. Mạng lưới trường học được chú trọng quy hoạch theo hướng đa dạng hóa, xã hội hóa, có cơ cấu hợp lý giữa các ngành học, cấp học59, số lượng phòng học ngày càng tăng60. Cơ sở vật chất bậc mầm non và phổ thông cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu dạy và học với 114 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 28,3%. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đạt nhiều kết quả tích cực61; mạng lưới trường đại học, cao đẳng, dạy nghề bước đầu khẳng định vai trò trung tâm văn hóa, giáo dục và đào tạo của vùng.
Các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ công tác dạy nghề trên địa bàn thành phố được thực hiện hiệu quả62; quy mô đào tạo thực hiện vượt kế hoạch với 52.563 lao động được đào tạo, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 55%; 80% lao động học nghề được giới thiệu và giải quyết việc làm. Từng bước giảm tỷ lệ trường công lập so với trường tư; tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia phát triển cơ sở giáo dục tư thục chất lượng cao. Kiên trì kiến nghị đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng dự án Khu đô thị Đại học Đà Nẵng.
Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng, nhiều đề tài khoa học và công nghệ được ứng dụng thực tiễn; tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các chương trình trọng điểm về khoa học và công nghệ cấp quốc gia; xây dựng và triển khai Kế hoạch phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ; thành lập Quỹ phát triển khoa học - công nghệ. Gắn kết hoạt động nghiên cứu, đào tạo với sản xuất, kinh doanh và đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm, hình thành chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ63. Công tác nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ cao được chú trọng, đến năm 2020, tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị công nghệ đạt 20%/năm.
Chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được nâng lên đáng kể; xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa và trung tâm y tế, trạm y tế; đầu tư phát triển dịch vụ y tế chuyên sâu, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế với các mô hình bệnh viện vệ tinh, thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật chuyên môn sâu phù hợp với phân tuyến kỹ thuật; giảm tỷ lệ chuyển bệnh nhân đi tuyến trên và ra nước ngoài điều trị64; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên địa bàn thành phố đạt 98,2%. Lĩnh vực y tế dự phòng được đầu tư nâng cấp, mở rộng, chủ động triển khai tốt công tác dự báo và thực hiện hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch bệnh. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả65. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường, tạo sự an tâm cho người dân66.
Thành phố tiếp tục triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước giai đoạn 2015-2020 và Chỉ thị số 43-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về “Năm văn hóa, văn minh đô thị”, tạo sự chuyển biến rõ nét trong ý thức của người dân thành phố, khẳng định bản sắc văn hóa năng động, sáng tạo, thân thiện, nếp sống văn minh đô thị của người Đà Nẵng. Thực hiện Đề án Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị gắn với phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mang lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa. Đời sống văn hóa ở cơ sở, môi trường văn hóa có sự chuyển biến tích cực; các quy tắc ứng xử văn hóa, văn minh ngày càng thâm nhập sâu vào ý thức mỗi người dân.
Lĩnh vực văn hóa tiếp tục được quan tâm, nhiều di sản văn hóa, di tích lịch sử được xếp hạng, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị67, góp phần xây dựng nét văn hóa đặc trưng của thành phố. Hệ thống thiết chế văn hóa - thể thao cơ sở được triển khai theo quy hoạch trên địa bàn từng quận, huyện, phát huy tốt hoạt động, trở thành địa điểm tập trung sinh hoạt văn hóa, tập luyện thể thao, vui chơi của người dân địa phương. Công tác quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình được chú trọng68, góp phần quảng bá hình ảnh của Đà Nẵng69.
Hoạt động sáng tác, biểu diễn văn học, nghệ thuật dần nâng cao chất lượng và có nhiều khởi sắc, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Đội ngũ văn nghệ sĩ giàu sức sáng tạo, luôn đồng hành trong việc tuyên truyền, thực hiện chủ trương, chính sách lớn của Trung ương và thành phố; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Nhiều sự kiện văn hóa, thể thao lớn, mang tầm quốc gia, quốc tế được tổ chức thường niên tại Đà Nẵng, nâng cao vị thế và quảng bá hình ảnh thành phố. Tích cực vận động các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia tài trợ và hỗ trợ kinh phí tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao và thể thao giải trí70. Hoạt động thể thao giải trí gắn kết với du lịch được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả lớn trong phát triển kinh tế và quảng bá du lịch.
Chương trình “Thành phố 4 an”71 và các chính sách an sinh xã hội được triển khai thực hiện đạt kết quả; thực hiện tốt công tác chăm sóc các đối tượng chính sách, người có công72. Triển khai thực hiện đầy đủ các chương trình, kế hoạch, dự án bảo vệ, chăm sóc trẻ em; nhiều mô hình chăm sóc, hỗ trợ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được triển khai thực hiện có hiệu quả73. Công tác đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân được duy trì74, nhất là những chủ trương, chính sách đặc thù của thành phố được triển khai hướng đến các mục tiêu an sinh bền vững. Công tác giảm nghèo, giải quyết chính sách xã hội đạt kết quả tốt, về đích trước 2 năm theo chuẩn nghèo thành phố giai đoạn 2016-2020; đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo còn sức lao động chuẩn mới thành phố theo hướng tiếp cận đa chiều giảm còn 2,04%75.
Các đề án “Có nhà ở”, “7.000 căn hộ dành cho người thu nhập thấp” được triển khai có hiệu quả, huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp và ký túc xá sinh viên76. Kịp thời hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động. Đề án “Có việc làm” được tiếp tục thực hiện tốt và khẳng định là chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội77; ban hành cơ chế, chính sách và xây dựng các mô hình giải quyết việc làm, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và tuyển dụng làm việc78.
III. THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC PHÒNG - AN NINH VÀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP
- Công tác quốc phòng - an ninh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nhận thức của cấp ủy, lãnh đạo các ngành, cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội được nâng lên. Lực lượng vũ trang thành phố cùng hệ thống chính trị đã phối hợp chặt chẽ với các quân, binh chủng trên địa bàn thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới và các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phù hợp vai trò, vị trí trọng yếu của thành phố.
Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, thế trận biên phòng toàn dân được củng cố. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là trong thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch, phương án xây dựng thế trận quốc phòng một cách toàn diện, đi vào chiều sâu. Công tác quân sự địa phương có nhiều tiến bộ trong xây dựng, huấn luyện, tăng cường khả năng phòng thủ; tổ chức tốt diễn tập phòng thủ, diễn tập phòng, chống biểu tình, bạo loạn, khủng bố; chỉ đạo thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh trật tự khu vực biên giới biển thành phố.
Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân79; xây dựng lực lượng thường trực, quân dự bị và dân quân tự vệ, dự bị động viên đủ số lượng, vững mạnh về chính trị, tư tưởng80, tổ chức và sẵn sàng cơ động, chiến đấu cao. Chất lượng giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh được nâng lên rõ rệt81. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chế độ, chính sách hậu phương quân đội. Lực lượng vũ trang thành phố và các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn làm tốt công tác dân vận, tích cực tham gia các chương trình giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới, tạo nên mối đoàn kết quân dân ngày càng vững chắc, giữ vững ổn định chính trị.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Chủ động nắm tình hình, phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để xảy ra bị động, bất ngờ, gây mất ổn định an ninh chính trị. Công tác quản lý đối với người nước ngoài nhập cảnh, lưu trú, hoạt động tại địa bàn được tăng cường. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm được triển khai quyết liệt với nhiều giải pháp mới, hiệu quả; tội phạm được kiểm soát, trấn áp mạnh, nhất là hoạt động cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê, tội phạm cố ý gây thương tích, cướp tài sản, ma túy, kinh tế, môi trường.
Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả được nâng lên. Tình hình an toàn giao thông chuyển biến tích cực, 5 năm liên tiếp tai nạn giao thông giảm dần trên cả 3 tiêu chí82; không xảy ra đua xe trái phép, ùn tắc giao thông kéo dài; văn hóa và ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông được nâng lên, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Thực hiện nghiêm chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn; không để xảy ra cháy nổ gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia ngày càng được nâng cao về chất lượng và hiệu quả, công tác xây dựng lực lượng cốt cán và tổ chức quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở ngày càng được tăng cường.
Thành phố chú trọng đầu tư bổ sung và xây mới các công trình phòng thủ; hỗ trợ mua sắm trang thiết bị phương tiện, khí tài; kiện toàn, nâng cao chất lượng toàn diện các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu; xây dựng lực lượng công an, quân đội vững mạnh, đảm bảo khả năng ngăn chặn và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đúng tiến độ, yêu cầu đề ra, đạt được nhiều kết quả và chuyển biến rõ nét. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố và các ngành chức năng thường xuyên nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, không để chồng chéo. Việc chọn án xét xử theo thủ tục rút gọn, tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện khá tốt. Cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp được cụ thể hóa qua các nghị quyết hằng năm của Hội đồng nhân dân thành phố về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp thường xuyên được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, cơ quan điều tra và thi hành án hình sự hai cấp được tổ chức theo đúng quy định của pháp luật83.
Cơ sở vật chất phục vụ các ngành trong khối tư pháp, hạ tầng phương tiện truyền thông phục vụ phiên tòa trực tuyến được quan tâm đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đáp ứng yêu cầu; việc công khai bản án, cải cách hành chính một cửa tại các cơ quan tư pháp được thực hiện có bước đột phá; qua đó, tạo bước chuyển mới trong cải cách hành chính tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận các hoạt động của ngành tư pháp. Việc thực hiện Đề án thí điểm tăng cường công tác hòa giải đối thoại trong ngành Tòa án nhân dân đạt nhiều kết quả tích cực84. Hoạt động bổ trợ tư pháp được chú trọng, chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp đã góp phần hỗ trợ tốt cho hoạt động tư pháp, đáp ứng tốt nhu cầu dịch vụ pháp lý của người dân thành phố.
IV. THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG - CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN, PHÁT HUY VAI TRÒ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
1. Về xây dựng - chỉnh đốn Đảng
Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức đặc biệt được chú trọng và có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh với nội dung phong phú và hình thức đa dạng. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng từng bước được đổi mới hình thức; tình trạng lười học, ngại học, chán học lý luận chính trị từng bước được khắc phục. Công tác tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch được thực hiện kịp thời, tăng “sức đề kháng” của cán bộ, đảng viên, góp phần phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng85. Công tác nghiên cứu lý luận, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ được tăng cường; công tác khoa giáo có nhiều chuyển biến tích cực; công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng và giáo dục, phát huy truyền thống cách mạng được đẩy mạnh.
Việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có nhiều hình thức sáng tạo, trở thành công việc thường xuyên của nhiều tổ chức và cá nhân86. Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc, từng bước đi vào chiều sâu; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu87; xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình trong các cấp, các ngành, tạo sự lan tỏa rộng lớn trong xã hội.
Công tác xây dựng tổ chức đảng và đảng viên được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả quan trọng. Cấp ủy các cấp luôn quan tâm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các loại hình tổ chức đảng, củng cố, kiện toàn các cơ sở đảng yếu kém. Việc phân công cấp ủy viên phụ trách cơ sở và tham gia sinh hoạt chi bộ khu dân cư, địa bàn, đơn vị và lĩnh vực công tác được các cấp ủy quan tâm thường xuyên, liên tục.
Việc tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt đảng được nâng cao trên tinh thần xây dựng; đoàn kết trong nội bộ đảng được tăng cường. Việc đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên hằng năm được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định; có sự gắn kết giữa xếp loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên với kết quả kiểm điểm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ được quan tâm và gắn với nhiệm vụ của đảng viên. Công tác phát triển đảng viên được nâng cao về chất lượng theo tinh thần Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư; thực hiện nghiêm túc việc giới thiệu đảng viên đương chức về sinh hoạt, giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp ủy nơi cư trú.
Công tác xây dựng tổ chức bộ máy của các cơ quan Đảng được thực hiện tích cực, hiệu quả, tinh giản biên chế được thực hiện đúng với quan điểm chỉ đạo của Trung ương và phù hợp với thực tiễn. Công tác cán bộ có chuyển biến tích cực, công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ đảm bảo quy trình, quy định. Thành ủy đã cụ thể hóa các quy định của Trung ương trong công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tế của thành phố88. Việc tổ chức thí điểm thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý được thực hiện bài bản; nhiều giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cấp cơ sở được triển khai kịp thời. Thực hiện có kết quả Đề án Phát triển và tạo nguồn cán bộ nữ giữ các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý đến năm 2020 và Đề án Xây dựng và tạo nguồn cán bộ trẻ đảm nhiệm các chức danh diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý và cán bộ chủ chốt thành phố đến năm 2025 và những năm tiếp theo89. Ban Thường vụ Thành ủy đã chỉ đạo việc bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ vào ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực cấp ủy các cấp, cơ bản đảm bảo sự chuyển giao kịp thời, ổn định giữa các thế hệ lãnh đạo.
Công tác đánh giá cán bộ được thực hiện đảm bảo các tiêu chí theo quy định của Trung ương. Việc lấy phiếu tín nhiệm gắn với công tác nhân sự phục vụ đại hội đảng từ cấp thành phố đến cơ sở đúng quy định90, làm cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, đánh giá, quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, miễn nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ. Thành ủy xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đã chỉ đạo ban hành và triển khai Đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công thành phố đến năm 2020; tạo nguồn cán bộ trẻ được đào tạo bài bản, có năng lực ngoại ngữ, có khả năng tiếp cận nhanh khoa học, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến.
Công tác rà soát, bổ sung, quy hoạch cán bộ các cấp được thực hiện có hiệu quả; thực hiện quy trình rà soát, bổ sung quy hoạch và trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư phê duyệt đúng quy định91. Công tác bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; phương án luân chuyển, điều động cán bộ chủ chốt ở một số quận, huyện không phải là người địa phương92; kiện toàn nhân sự lãnh đạo chủ chốt các sở, ban, ngành, quận, huyện gắn với công tác chuẩn bị nhân sự đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 được thực hiện đúng quy định của Trung ương.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng; việc tổ chức quán triệt Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28/02/2018 của Bộ Chính trị về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng được tiến hành nghiêm túc93. Công tác thẩm tra, xác minh, kết luận về tiêu chuẩn chính trị trước khi tiến hành kết nạp vào Đảng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ được thực hiện chặt chẽ, thường xuyên; thực hiện tốt quy chế phối hợp về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng có nhiều đổi mới, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, nổi cộm, bức xúc được dư luận quan tâm94. Kịp thời, nghiêm túc ban hành văn bản chỉ đạo, khắc phục những tồn tại, hạn chế sau các kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, nhất là Thông báo số 292-TB/UBKTTW ngày 21/9/2017 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; gắn kiểm tra, giám sát tổ chức đảng với trách nhiệm người đứng đầu. Cấp ủy các cấp tăng cường tiến hành kiểm tra, giám sát chuyên đề, xử lý nghiêm, kịp thời đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm95. Qua đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kịp thời khắc phục hạn chế, thiếu sót trong triển khai thực hiện, rút ra nhiều kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.
Công tác dân vận được tăng cường và tiếp tục đổi mới, dân vận chính quyền và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng được phát huy. Công tác tiếp xúc, đối thoại với nhân dân được tăng cường; việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân kịp thời, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, tạo niềm tin trong nhân dân. Phong trào thi đua Dân vận khéo được mở rộng, trở thành hoạt động thường xuyên.
Công tác nội chính, phòng chống tham nhũng được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với nhiều giải pháp quyết liệt, mạnh mẽ96; qua đó, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra điểm nóng; công tác cải cách tư pháp gắn với nhiệm vụ chính trị của ngành tư pháp được thực hiện đồng bộ, tỷ lệ giải quyết án luôn đạt và vượt chỉ tiêu ngành, thành phố giao. Nhiều vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp được khám phá nhanh chóng, kịp thời ổn định dư luận. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được các cơ quan chức năng tập trung phối hợp giải quyết đúng pháp luật, giải quyết có kết quả các vụ việc tồn đọng, nổi cộm97; thi hành án, thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế được phối hợp thực hiện tốt98. Việc đưa ra xét xử vụ án Phan Văn Anh Vũ, trong đó có nhiều nguyên cán bộ lãnh đạo thành phố đã tác động đến nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố, có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục được chấn chỉnh, đổi mới, bám sát và thực hiện nghiêm túc Quy chế làm việc, xem đây là một trong những yếu tố quyết định đối với công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị, là chìa khóa cho sự ổn định và phát triển của thành phố. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách được chấp hành tốt, hoạt động của thường trực cấp ủy đảm bảo tính nhịp nhàng, hiệu quả. Trên cơ sở nghị quyết Trung ương, Thành ủy và Ban Thường vụ Thành ủy, Đảng đoàn Hội đồng nhân dân và Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố thể chế hóa về mặt Nhà nước và triển khai thực hiện các nghị quyết chuyên đề, các đề án lớn để thực hiện, nhanh chóng đưa vào thực tiễn và triển khai đồng bộ, cụ thể, hiệu quả. Lãnh đạo thành phố tổ chức nhiều cuộc đối thoại với phụ nữ, thanh niên, công nhân, nông dân trên cơ sở tham mưu của các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố nhằm trao đổi, giải quyết các đề xuất về cơ chế, chính sách cụ thể. Các ý kiến, kiến nghị, đề xuất được ghi nhận, tiếp thu và giao các cơ quan có thẩm quyền, các ngành chức năng của địa phương xem xét, giải quyết theo quy định.
2. Xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước đạt kết quả tích cực.
Hệ thống tổ chức chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. Thành phố đã triển khai nghiêm túc Luật Tổ chức chính quyền địa phương và tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là tập trung lãnh đạo việc thực hiện tái lập Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện, phường nhiệm kỳ 2016-2021 đúng quy định. Chất lượng và hiệu quả trong hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm, bản lĩnh của đại biểu Hội đồng nhân dân, đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân tiếp tục có sự đổi mới. Tích cực xây dựng và trình Quốc hội Đề án tổ chức mô hình thí điểm chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, quản lý ngành, lĩnh vực được giao; thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, ủy quyền; giúp Ủy ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước chỉ đạo, điều hành trên các lĩnh vực một cách hiệu quả. Cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn đã từng bước được sắp xếp hợp lý theo quy định, hướng dẫn của bộ, ngành Trung ương, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định; đảm bảo tinh gọn, hiệu quả, có sự phối hợp hiệu quả giữa các phòng, ban trong đơn vị, giảm dần tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với tính chất quản lý ở khu vực đô thị. Mối quan hệ, phối hợp trong công tác giữa các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân thành phố với ủy ban nhân dân quận, huyện, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân quận, huyện, ủy ban nhân dân phường, xã chặt chẽ. Công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến tích cực.
Hoạt động của ủy ban nhân dân các quận, huyện, phường, xã có nhiều đổi mới, năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên; số lượng phó chủ tịch ủy ban nhân dân, số lượng thành viên ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân thành phố, quận, huyện phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương và tình hình thực tiễn quản lý trên địa bàn. Việc sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách phường, xã đảm bảo theo đúng luật định.
Tập trung đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19-NQ/TW. Đã giảm được 3 đầu mối trực thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố do hợp nhất 3 cơ quan và hợp nhất 2 ban quản lý trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố thành Ban Quản lý Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng99. Các đơn vị sự nghiệp công lập được sắp xếp thể hiện rõ rệt theo tiêu chí 4 giảm100, đảm bảo tinh gọn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; hoạt động chuyên nghiệp hơn101.
Công tác cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực. Chất lượng giải quyết thủ tục hành chính được nâng cao rõ rệt, đơn giản hóa, mở rộng hình thức, minh bạch hóa thủ tục hành chính và các thông tin quản lý nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được duy trì và chú trọng, lấy kết quả đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức làm thước đo về chất lượng dịch vụ hành chính công. Công tác hiện đại hóa hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin được triển khai đồng bộ từ thành phố đến cơ sở, nổi bật là hệ thống một cửa điện tử hiện đại tại Trung tâm hành chính thành phố.
Đến năm 2020, có 100% dịch vụ công trực tuyến cung cấp cho người dân, doanh nghiệp ở mức độ 3 và 4. Việc triển khai Đề án xây dựng thành phố thông minh giai đoạn 2018-2025, định hướng đến 2030 đạt kết quả bước đầu102. Mạng lưới kết nối thông tin giữa các cơ quan đơn vị thuộc thành phố đang ngày càng mở rộng, hình thành cơ sở dữ liệu chung toàn thành phố trong nhiều lĩnh vực quản lý. Kết quả cải cách hành chính đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, góp phần đưa Đà Nẵng nhiều năm xếp thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng tỉnh, thành theo nhiều chỉ số103.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về cơ bản được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác thi tuyển công chức được thực hiện nghiêm túc đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, công khai, đúng pháp luật, đạt yêu cầu nhiệm vụ và vị trí việc làm. Việc thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt kết quả tốt104. Công tác kiểm tra thi hành pháp luật, tổ chức tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đạt kết quả tích cực, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc trong khu dân cư, giảm mạnh tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp; thành phố cũng giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, không để phát sinh điểm nóng trong nhân dân.
3. Thực hiện dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tập hợp và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Triển khai thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh gắn với chương trình “thành phố 5 không”, “3 có”, “4 an” và các phong trào thi đua yêu nước, thi đua lao động sáng tạo, các đợt thi đua cao điểm thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Thực hiện tốt vai trò tập hợp, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội và vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân105; phát huy vai trò các nhân sĩ, trí thức, người tiêu biểu trong các giới, dân tộc tham gia góp ý chân thành, thẳng thắn, trách nhiệm về những vấn đề quan trọng của đất nước và thành phố; tăng cường tình đoàn kết, hòa hợp của cộng đồng các tôn giáo. Hằng năm, tổ chức tốt Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc trang trọng, ý nghĩa, với các chủ đề thiết thực, giúp cán bộ các cấp gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân.
Phát huy dân chủ, thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp được chú trọng. Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đạt một số kết quả tích cực; nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, nhất là người đứng đầu về thực hiện quy chế dân chủ được nâng lên. Mặt trận thành phố chủ trì tổ chức tốt 07 hội nghị phản biện xã hội, chủ trì giám sát 08 chuyên đề thông qua 28 đoàn giám sát106; các đoàn thể chính trị- xã hội thành phố chủ trì giám sát 11 chuyên đề107. Các cấp Mặt trận thành phố giai đoạn 2014-2019 tổ chức 71 hoạt động phản biện xã hội108. Các nội dung kiến nghị sau giám sát, phản biện được đánh giá cao, phù hợp thực tiễn thành phố và được tiếp thu. Mặt trận, các đoàn thể nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, vận động nhân dân bầu cử, giám sát bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên tham gia góp ý 45 dự thảo luật, 160 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Các hội quần chúng, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp đoàn kết, sáng tạo, tổ chức nhiều phong trào thi đua và đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp hiệu quả vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo của thành phố. Bộ máy tổ chức xã hội các cấp được củng cố, kiện toàn, thực hiện đúng quy định; đội ngũ cán bộ tâm huyết, năng động trong khai thác các nguồn lực hỗ trợ cho sự phát triển của tổ chức hội.
V. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Những hạn chế
1.1. Về kinh tế - xã hội
- Mục tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết (8-9%/năm); sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế chưa được cải thiện về trình độ, quy mô109, chất lượng tăng trưởng.
+ Các ngành dịch vụ phát triển chưa toàn diện. Sản phẩm du lịch chưa phong phú, nặng về khai thác du lịch biển, thiếu liên kết với du lịch sinh thái, đồng quê, văn hóa, lịch sử; chậm hình thành các khu mua sắm - ẩm thực - giải trí tập trung quy mô lớn về đêm. Các trung tâm thương mại lớn còn ít, hệ thống bán lẻ có phát triển, nhưng mới tập trung phục vụ nhu cầu của người dân địa phương và bộ phận du khách, chưa khai thác hết được tiềm năng thị trường và vị trí trung tâm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và nhu cầu mua sắm của khách du lịch. Các loại hình kinh doanh hiện đại phát triển chưa nhiều, chưa thu hút được đầu tư từ khu vực tư nhân vào xây dựng và quản lý, khai thác chợ. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng chưa phát huy hết vai trò hỗ trợ phát triển, nhất là đối với doanh nghiệp. Xuất khẩu hàng hóa tăng chậm, giá trị gia tăng thấp110. Lợi thế về kinh tế biển chưa được phát huy tốt, các dự án lớn về logistics chưa được triển khai.
+ Quy mô ngành công nghiệp nhỏ, chậm có bước phát triển đột phá và tụt lại tương đối so với cả nước. Thu hút công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin (phần cứng) có chuyển biến, nhưng chưa đạt kỳ vọng, chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng trong nhiệm kỳ. Việc triển khai các Khu Công nghệ thông tin, Khu công viên phần mềm trên địa bàn thành phố còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong áp dụng chính sách ưu đãi của Trung ương.
+ Quy hoạch sản xuất nông nghiệp chưa ổn định, vẫn còn ở quy mô nhỏ, tiến độ tái cơ cấu các lĩnh vực sản xuất còn chậm, chưa tạo đột phá về ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng cao. Hạ tầng nông thôn tuy được cải thiện đáng kể nhưng chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về tài nguyên, môi trường, sử dụng đất đai, xây dựng, trật tự đô thị, thị trường bất động sản, nhà ở xã hội còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đô thị năng động; quỹ đất dành cho giao thông tĩnh, không gian xanh, tiện ích công cộng, giáo dục, y tế và các thiết chế văn hóa chưa đồng bộ; giao thông công cộng được đầu tư nhưng hiệu quả còn thấp. Thiếu vốn và ách tắc về cơ chế trong thực hiện chủ trương điều chỉnh, dừng hoặc thu hồi các dự án nhằm đảm bảo phát triển bền vững, phục vụ cộng đồng.
+ Tổng vốn đầu tư phát triển không đạt chỉ tiêu (ước tăng 5,3%/năm; chỉ tiêu 9-10%/năm), đầu tư theo hình thức đối tác công tư chưa nhiều. Kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao (90%) trong nền kinh tế, nhưng đa phần là doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chưa có nhiều doanh nghiệp lớn có sức lan tỏa và tác động tích cực đến sự phát triển thành phố. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn chế, chủ yếu ở lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Các dự án, công trình có tác động thúc đẩy toàn Vùng do Trung ương đầu tư chưa có nguồn vốn bố trí, ảnh hưởng đến dân sinh111, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và kết nối phát triển khu vực. Cảng Tiên Sa theo dự báo có nguy cơ quá tải trong dài hạn. Sân bay quốc tế Đà Nẵng tuy đã được đầu tư nâng cấp song vẫn chưa đáp ứng được tốc độ tăng trưởng thực tế.
+ Tiến độ triển khai một số công trình, dự án động lực, trọng điểm của thành phố, nhất là về hạ tầng đô thị, giao thông, môi trường còn chậm, nảy sinh nhiều bất cập trong thu gom, xử lý nước thải, rác thải, trong cấp nước sinh hoạt và ùn tắc giao thông cục bộ. Trên lĩnh vực quản lý đô thị, đầu tư, xây dựng, đất đai còn để xảy ra khiếm khuyết, sai phạm phải kiểm điểm, kỷ luật một số cán bộ, đảng viên.
- Chủ trương xã hội hóa, đổi mới quản lý về giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao đạt kết quả chưa cao; phát triển văn hóa, thể dục - thể thao chưa tương xứng với vai trò, vị trí của thành phố. Kết quả chương trình “thành phố 4 an” gắn với chương trình thành phố “5 không”, “3 có” trên một số mặt chưa thực sự hiệu quả, bền vững. Thị trường khoa học và công nghệ chưa phát triển đồng bộ và gặp nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng nhu cầu. Lĩnh vực sáng tác, biểu diễn văn học nghệ thuật chưa được đầu tư phát triển đúng mức, chưa đáp ứng nhu cầu thụ hưởng ngày càng cao của người dân và du khách. Đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao không đạt yêu cầu đề ra, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của thành phố. Việc chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động cho một bộ phận dân cư diện di dời giải tỏa thực hiện chưa tốt; số hộ nghèo thoát nghèo nhanh nhưng chưa bền vững.
1.2. Về quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ có nội dung chưa toàn diện. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân chưa đồng bộ, chưa đi vào chiều sâu nhằm tạo được tác động mạnh mẽ để làm thay đổi cơ bản nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân. Tội phạm tuy được kéo giảm về số vụ nhưng vẫn tiềm ẩn phức tạp; các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, lừa đảo qua mạng, liên quan người nước ngoài có dấu hiệu gia tăng.
1.3. Về xây dựng - chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy vai trò Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ thành phố và phản bác các quan điểm sai trái, nhất là đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên internet, mạng xã hội còn chậm và chưa theo kịp với xu thế phát triển. Công tác tư tưởng, định hướng thông tin dư luận chưa sắc bén, tính thuyết phục chưa cao, nhất là trong xử lý các thông tin liên quan tới thành phố; tổng kết thực tiễn, lý luận còn hạn chế; quản lý, chỉ đạo báo chí có lúc chưa kịp thời, chưa đồng bộ.
Công tác cán bộ còn một số vấn đề bất cập, cơ cấu đội ngũ cán bộ của thành phố vẫn chưa phù hợp, số lượng cán bộ nữ, cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa đảm bảo tỷ lệ theo yêu cầu. Việc bổ nhiệm, bố trí cán bộ trong một số trường hợp vẫn còn bị động, thiếu sự chuẩn bị dài hạn, có thời điểm còn sai sót, vi phạm. Công tác xây dựng Đảng, quản lý đảng viên, nền nếp, nội dung sinh hoạt chi bộ ở một số nơi và loại hình còn hạn chế; phát triển tổ chức Đảng và đảng viên ở địa bàn dân cư, trong doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước gặp khó khăn; tỷ lệ phát triển đảng viên mới chưa đạt so với chỉ tiêu đề ra; tỷ lệ đảng viên bỏ sinh hoạt đảng ở các khu dân cư gần đây có xu hướng tăng.
Công tác kiểm tra, giám sát có lúc, có nơi chưa trọng tâm, chưa kịp thời, việc kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy viên, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể còn ít. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát chưa cao; nội dung kiểm tra, giám sát có nơi chưa đi vào lĩnh vực nhạy cảm như quản lý đất đai, quản lý trật tự đô thị, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, công tác cán bộ. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong công tác tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực có lúc chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Công tác giám sát của các cơ quan dân cử, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chưa được phát huy đúng mức. Hoạt động chất vấn trong các kỳ họp của cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp còn hạn chế, chưa trở thành nền nếp sinh hoạt trong xây dựng Đảng.
Công tác dân vận có mặt còn hạn chế, công tác dân vận chính quyền ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức; việc nắm và dự báo tình hình nhân dân, lắng nghe những phản ánh của cơ sở chưa kịp thời nên việc xử lý có lúc chưa đạt hiệu quả. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chưa thật sự rõ nét; công tác phát triển, nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, xây dựng lực lượng chính trị trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập chưa đạt yêu cầu.
Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực có mặt còn bất cập, kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm. Tư tưởng, thái độ làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có phần giảm sút; chưa có cơ chế triển khai hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính, thực hiện trách nhiệm công vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chưa phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, chưa thu hút được đối tượng trẻ tham gia. Chất lượng công tác cải cách tư pháp tuy được cải thiện nhưng chưa cao, tiến độ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu.
Trong đầu nhiệm kỳ, do chậm, thiếu quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục các sai phạm về đất đai theo Kết luận của Thanh tra Chính phủ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc cho chủ trương về một số trường hợp cán bộ và một số dự án phát triển kinh tế - xã hội chưa đảm bảo theo quy định, dẫn đến sai phạm, tập thể Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2015-2020, hai đồng chí cán bộ chủ chốt, các đơn vị và cá nhân liên quan bị xử lý kỷ luật.
2. Nguyên nhân của hạn chế
2.1. Về khách quan
Quy mô kinh tế thành phố nhỏ, nguồn lực đầu tư, tài chính, lao động khó khăn112, thị trường hạn hẹp. Cơ chế, chính sách đặc thù về tài chính, ngân sách, đầu tư, phân cấp quản lý và việc triển khai một số dự án, công trình trọng điểm, tạo động lực và sức bật cần thiết để Đà Nẵng phát triển nhanh, phát huy vai trò thúc đẩy toàn Vùng, chưa được ban hành và thực hiện tương xứng với yêu cầu theo các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng và phát triển Đà Nẵng. Những sai phạm trong công tác lãnh đạo phát triển kinh tế của các nhiệm kỳ trước và đầu nhiệm kỳ dẫn đến thành phố cùng lúc phải xem xét, chỉ đạo, giải quyết, khắc phục nhiều kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, ảnh hưởng nhất định đến nỗ lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp; thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19, cùng nhiều vấn đề phát sinh ngoài dự lường đã ảnh hưởng lớn đến nỗ lực của thành phố trong việc lãnh đạo, điều hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư.
2.2. Về chủ quan
Việc quán triệt một số chủ trương của Đảng và các quy định của Nhà nước chưa sâu, tổ chức thực hiện chưa tốt, nhất là trên lĩnh vực kinh tế và hội nhập quốc tế. Phát triển kinh tế chưa gắn chặt với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Khả năng phân tích, dự báo còn hạn chế, chưa dự lường được những khó khăn phát sinh ngoài dự kiến, có chỉ tiêu đề ra cao, không đạt kế hoạch113, còn bị động trong một số lĩnh vực ở một số thời điểm, nhất là việc thực hiện chưa nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, cùng với sự thay đổi về bối cảnh và cán bộ chủ chốt khi bắt đầu nhiệm kỳ.
Cụ thể hóa, triển khai thực hiện 3 đột phá về kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XXI chưa đạt mục tiêu đề ra, nhất là trong thu hút đầu tư công nghiệp công nghệ cao, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong triển khai thực hiện các công trình, dự án động lực, trọng điểm và xử lý các điểm nóng về môi trường. Chỉ đạo điều hành giải quyết khó khăn cho nhà đầu tư còn rất chậm, thiếu quyết liệt, lúng túng, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chưa thật sự đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Phân công, phân cấp chưa hợp lý; công tác phối hợp, chỉ đạo, điều hành giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ; chưa phát huy tốt vai trò của các cơ quan chuyên môn trong việc tổ chức quản lý và tham mưu. Tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác, năng động, sáng tạo của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức các cấp vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đánh giá chung
Năm năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng. Cơ bản là thành phố giữ được ổn định, nhân dân đồng thuận, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được củng cố, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường. Đặc biệt, trước những khó khăn, thách thức mới, thành phố đã kịp thời điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, quyết tâm khắc phục những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; vừa tập trung giải quyết những vấn đề có tính cơ bản, bền vững114; đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc, tháo gỡ từng bước các vấn đề phức tạp nảy sinh, nhất là thời điểm sau Thông báo số 292-TB/UBKTTW ngày 21/9/2017 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và các nguồn lực để đầu tư phát triển thành phố; đẩy mạnh hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng nguồn thu cho ngân sách. Nhờ đó, kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; chất lượng tăng trưởng một số mặt được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng; các chỉ số về tính hấp dẫn, tính cạnh tranh địa phương, chỉ số phát triển con người duy trì được vị trí tốp đầu của cả nước.
Thực hiện 3 đột phá về kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XXI đạt kết quả rõ trên một số lĩnh vực. Ngành dịch vụ dẫn đầu về tỷ trọng; dịch vụ thương mại, thông tin và truyền thông, vận tải, logistics, tài chính, ngân hàng, giáo dục - đào tạo, y tế đều phát triển với tốc độ cao. Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có thương hiệu, có khả năng cạnh tranh quốc tế, Đà Nẵng vẫn được biết đến như là một điểm đến hấp dẫn, an toàn, thân thiện. Công nghiệp duy trì mức tăng trưởng khá, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin được chú trọng phát triển. Khu công nghệ cao, Khu công nghệ thông tin tập trung (giai đoạn 1) được đầu tư tương đối hoàn thiện, hứa hẹn sẽ là động lực mới cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững và hội nhập cao hơn của thành phố trong những năm đến. Nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Tiềm năng, thế mạnh kinh tế biển ngày càng được phát huy với vị thế là một trong 3 trụ cột phát triển của Đà Nẵng.
Hạ tầng kinh tế - xã hội, diện mạo đô thị có bước phát triển mới, nhanh chóng theo hướng văn minh, bền vững, thân thiện. Xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực, hoàn thành sớm mục tiêu đề ra. Lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt; đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng lên. Đà Nẵng từng bước khẳng định vai trò là đô thị lớn, đầu tàu, động lực phát triển, trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường, chủ quyền vùng biển được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị mặc dù phát sinh một số vấn đề nổi cộm, phức tạp, gây dư luận không tốt, tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng như công tác chỉ đạo, điều hành của thành phố, song Đảng bộ thành phố đã thể hiện rõ quyết tâm chính trị, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng đạt những kết quả quan trọng. Phương thức lãnh đạo của Đảng và hoạt động của bộ máy chính quyền hiệu quả hơn; dân chủ, công khai, minh bạch trong lãnh đạo, chỉ đạo được thực hiện tốt hơn. Hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở, sâu sát quần chúng, bước đầu tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác vận động quần chúng giúp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Qua đó, góp phần hiệu quả trong việc tạo sự ổn định và phát triển thành phố trong những năm qua.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, tích lũy để tái đầu tư, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh còn hạn chế. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt còn thấp, chậm được cải thiện. Có 3 chỉ tiêu về kinh tế chưa đạt115. Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 đột phá kinh tế - xã hội chưa quyết liệt. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất chưa mạnh; phần lớn doanh nghiệp thành phố có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chưa hình thành được những ngành hàng, sản phẩm, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô lớn theo mục tiêu nghị quyết. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ, bắt đầu có dấu hiệu quá tải trên một số mặt, song chậm được giải quyết. Chất lượng giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực chưa đồng đều; các lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật chưa được đầu tư để phát triển ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của thành phố. Đời sống, việc làm của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, chậm được cải thiện. Tình hình trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Vai trò động lực, liên kết khu vực và sức lan tỏa còn yếu.
2. Bài học kinh nghiệm
- Phát huy dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, đồng thuận trong toàn xã hội; đánh giá, nhận định đúng, kịp thời tình hình liên quan đến thành phố, nhất là các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển để có những quyết sách và hành động nhanh chóng, quyết liệt, phù hợp; từ đó xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để tập trung thực hiện; trong lãnh đạo, quản lý điều hành phải mạnh dạn, quyết liệt, hiệu quả và đúng các quy định của pháp luật. Kịp thời ổn định tư tưởng, chia sẻ khó khăn, động viên tinh thần, tạo động lực làm việc cho cán bộ, đảng viên, công chức khi có khó khăn, phức tạp nảy sinh.
- Tranh thủ sự ủng hộ của Trung ương, mạnh dạn đề xuất, kiên trì, quyết liệt trong việc kiến nghị các cơ chế, chính sách đặc thù để thành phố phát triển nhanh, bền vững. Đầu tư giải quyết những vấn đề có tính cơ bản, lâu dài, đồng thời tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề phức tạp mới nảy sinh theo từng chuyên đề và đối tượng cụ thể. Tăng cường kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục, kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai phạm ngay từ đầu.
- Giữ đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm người đứng đầu; quyết liệt, kiên trì trong đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng bộ; tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, đồng bộ trong cả hệ thống chính trị. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, nhất là việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hiện nghiêm túc trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp ủy và thủ trưởng đơn vị, để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
- Lắng nghe ý kiến của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, kịp thời đối thoại và giải quyết hiệu quả các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn; tăng cường đồng thuận nhằm thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách trên địa bàn thành phố.
PHẦN THỨ HAI PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 2020-2025
Trong những năm đến, hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh vẫn là xu thế chủ đạo của thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang lại cả cơ hội và thách thức đối với mọi quốc gia - dân tộc. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương có vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế toàn cầu. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái. Hợp tác phát triển giữa các nước và các khu vực tiếp tục gia tăng, các yếu tố mất ổn định, tiếp tục ảnh hưởng đến phát triển ở các khu vực. Biến đổi khí hậu, hiện tượng nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, sự bùng phát các bệnh dịch sẽ đặt ra nhiều thách thức mới cho phát triển bền vững.
Sau gần 35 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, thế và lực của đất nước ngày càng nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống suy thoái, tham nhũng, lãng phí đang được đẩy mạnh để tiếp tục đảm bảo ổn định chính trị và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức, đó là: Hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế; năng suất lao động thấp; việc tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới bắt đầu; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch bệnh gia tăng; bất ổn khu vực trên nhiều mặt, tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường...
Thành phố Đà Nẵng được Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã đặt ra kỳ vọng và yêu cầu phát triển rất cao cho chặng đường tới. Tuy nhiên, thành phố cũng phải đối diện với nhiều thách thức: Năng lực cạnh tranh còn thấp, chất lượng tăng trưởng và nguồn lực đầu tư còn hạn chế, quy mô kinh tế còn nhỏ, không gian phát triển đô thị về chiều rộng có giới hạn, quỹ đất không còn nhiều; thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt đại dịch Covid-19 đã tác động lớn đến kinh tế - xã hội thành phố và khả năng còn kéo dài trong những năm đầu nhiệm kỳ 2020-2025... là những thách thức đối với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Điều này, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ, quyết liệt hơn ngay trong nhiệm kỳ này, “vững vàng đưa thành phố phát triển đi lên nhanh và mạnh hơn, vững chắc hơn”116 theo tinh thần nghị quyết.
I. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, chính quyền tiên phong trong đổi mới và phát triển, đưa thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị khởi nghiệp, sáng tạo, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước, là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên; quốc phòng - an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc; phấn đấu xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại, hướng đến đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh và đáng sống.
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2020-2025 tăng 9-10%/năm (dịch vụ tăng 10,5%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 8,5%/năm; nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 1%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10%/năm).
- GRDP bình quân đầu người đạt 6.000-6.500 USD.
- Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội trên địa bàn tăng 9-10%/năm.
- Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 9,8%/năm.
- Đến cuối năm 2025, không còn hộ nghèo còn sức lao động theo chuẩn đa chiều của thành phố.
- Đến cuối năm 2025, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới theo bộ tiêu chí mới của thành phố.
- Đến cuối năm 2025, tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo đạt 65%.
- Tỷ lệ tăng dân số bình quân 2,4%/năm (tăng tự nhiên giữ mức 1,0-1,2%).
- Duy trì 100% các xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đến năm 2025 đạt 99%.
- Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2025 đạt 47,5%.
- Duy trì tỷ lệ số hộ dân được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 100%.
- Đến năm 2025, tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn đạt trên 90%; duy trì tỷ lệ nước thải công nghiệp được thu gom và xử lý tập trung đạt tiêu chuẩn xả thải đạt 100%; chỉ số chất lượng không khí (AQI) < 100. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý hợp vệ sinh 100%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được tái sử dụng, tái chế đạt 15%; tất cả các phường, xã trên địa bàn thành phố tổ chức phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình; đảm bảo 100% các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cơ quan, tổ chức thực hiện phân loại chất thải rắn.
- Tỷ lệ khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn đến năm 2025 đạt 100%.
- Hằng năm, có từ 80% tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được xếp loại chất lượng Hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ
1. Về phát triển kinh tế - xã hội: Thực hiện đồng bộ các giải pháp sớm khôi phục nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội thành phố sau đại dịch Covid-19; đồng thời tập trung triển khai một cách căn cơ, vững chắc các nhiệm vụ, giải pháp sau:
1.1. Thực hiện tiến trình đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế
1.1.1. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, chuyển đổi từng bước, căn bản các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp sang những ngành, lĩnh vực có giá trị cao, với 3 trụ cột: (1) Tập trung phát triển các ngành dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng lớn, nhất là dịch vụ du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có thương hiệu quốc tế, (2) Phát triển mạnh công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng nền kinh tế số trong xu thế Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (3) Tiếp tục đầu tư phát triển mạnh kinh tế biển gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo; phát triển nông nghiệp phục vụ đô thị và du lịch gắn với cung ứng sản phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn. Trong đó, tập trung ưu tiên 5 lĩnh vực mũi nhọn cụ thể sau:
Thứ nhất, phát triển du lịch, dịch vụ chất lượng cao gắn với bất động sản nghỉ dưỡng:
- Sớm khôi phục hoạt động dịch vụ du lịch sau đại dịch Covid-19, nhất là các hoạt động quảng bá Đà Nẵng là điểm đến an toàn. Xây dựng, triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch trọng điểm thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng bền vững, hài hòa với thiên nhiên và môi trường theo Chương trình số 38-CTr/TU ngày 31/01/2020 của Ban Thường vụ Thành ủy về tập trung phát triển du lịch và dịch vụ chất lượng cao gắn với bất động sản nghỉ dưỡng; xây dựng Đà Nẵng thành điểm đến du lịch, dịch vụ hàng đầu, tầm khu vực, thành phố sự kiện, trung tâm hội nghị quốc tế117.
Khuyến khích phát triển các loại hình sản phẩm du lịch chất lượng cao118, định hướng đa dạng hóa thị trường, cơ cấu nguồn khách quốc tế119, hạn chế dần phụ thuộc vào một số thị trường và tăng khả năng thích ứng với các biến động thiên tai, dịch bệnh.
Tăng cường hợp tác, liên kết các địa phương trong nước, đặc biệt là liên kết giữa 4 địa phương Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Hà Nội và các tỉnh, thành phố vùng Duyên hải miền Trung để khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch của vùng, phát huy vai trò cửa ngõ du lịch của thành phố ở khu vực. Phối hợp với tỉnh Quảng Nam kiến nghị Trung ương hỗ trợ đầu tư, đẩy nhanh tiến độ dự án khơi thông sông Cổ Cò và hệ thống hạ tầng nhằm phát huy lợi thế, phát triển tuyến du lịch đường sông. Tiếp tục phát triển và đề xuất chính sách sớm hỗ trợ duy trì lâu dài đường bay đến các thị trường trọng điểm hiện có; nghiên cứu xúc tiến các đường bay trực tiếp đến Mỹ, châu Âu, Úc, Ấn Độ... Tích cực xúc tiến đăng cai tổ chức các sự kiện mang tầm quốc tế và khu vực, từng bước đưa Đà Nẵng trở thành thành phố sự kiện, trung tâm hội nghị quốc tế.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước, cân đối quỹ đất và địa điểm cho phát triển du lịch với các ngành kinh tế khác. Tiếp tục xây dựng Sơn Trà trở thành khu du lịch quốc gia, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch, triển khai đồng bộ du lịch thông minh; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng phục vụ, tính hấp dẫn và sự hài lòng điểm đến du lịch Đà Nẵng để gia tăng thời gian lưu trú, chi tiêu bình quân và tỷ lệ quay lại của du khách.
- Phát triển các ngành dịch vụ thương mại, tài chính - ngân hàng, giáo dục và đào tạo, y tế chất lượng cao... có khả năng cạnh tranh và kết nối cao với các trung tâm dịch vụ quốc tế trong khu vực ASEAN và thế giới. Tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện thu hút đầu tư, hình thành các trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại, cửa hàng miễn thuế. Tiếp tục hình thành tuyến phố du lịch, chợ đêm; đầu tư phát triển hợp lý một số chợ truyền thống theo hướng văn minh; khuyến khích phát triển các hình thức mua sắm hiện đại, thông minh, đẩy mạnh thương mại điện tử, mua sắm trực tuyến. Triển khai có hiệu quả chính sách xúc tiến thương mại, Đề án kết nối cung cầu các sản phẩm, Đề án phát triển thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp và Chương trình phát triển thương mại điện tử.
Phối hợp với các trường đại học trên địa bàn tiếp tục cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường kiểm định quốc tế, phát triển các chương trình đào tạo mới theo hướng hội nhập, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực, tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn của thành phố. Tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển y tế chuyên sâu... nhằm nâng cao chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh về cung ứng dịch vụ y tế. Khuyến khích các cơ sở y tế đầu tư mở rộng, nâng cấp, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, của người có thu nhập cao, người nước ngoài.
Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư, phát triển cảng biển, mở rộng và nâng công suất Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng gắn với phát triển dịch vụ logistics:
Tận dụng lợi thế về địa lý, hạ tầng giao thông đường bộ, đường biển, đường sắt và đường hàng không, tập trung phát triển thành phố trở thành một trung tâm kinh tế biển, hướng đến hình thành chuỗi cung ứng dịch vụ logistics tại miền Trung với vai trò là cửa ngõ giao nhận, vận chuyển với các địa phương, các quốc gia khu vực ASEAN và quốc tế120. Phối hợp triển khai đầu tư nâng công suất Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng đáp ứng 30 triệu khách/năm vào năm 2030; xúc tiến nhanh dự án cảng Liên Chiểu. Ưu tiên bố trí quỹ đất phát triển hệ thống kho bãi logistics, dự trữ hàng hóa thiết yếu để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển hoạt động sản xuất kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ.
Thứ ba, phát triển công nghiệp công nghệ cao, gắn với xây dựng đô thị sáng tạo, khởi nghiệp thật sự trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng trong nhiệm kỳ:
- Tập trung nguồn lực hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật Khu Công nghệ cao theo hướng đồng bộ và hiện đại121. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định số 04/2018/NĐ-CP của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với Khu công nghệ cao Đà Nẵng; chuẩn bị tốt nguồn nhân lực; tăng cường hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước, đẩy mạnh thu hút đầu tư, nhất là các dự án lớn về công nghệ cao, có sức lan tỏa122.
Xây dựng, ban hành Đề án Xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo quốc gia tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên và triển khai đồng bộ với các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng nghiên cứu cho Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp công nghệ cao, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Phát triển công nghệ, Trung tâm Đào tạo, phát triển khu công nghệ cao dần trở thành khu đô thị sáng tạo, khởi nghiệp, có sức cạnh tranh cao.
Đối với các lĩnh vực công nghiệp khác, ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ, phụ trợ, nhất là các lĩnh vực sản xuất cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho các ngành công nghiệp mũi nhọn tại thành phố và tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu; các lĩnh vực sản xuất sạch, thân thiện môi trường, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sản phẩm hướng vào xuất khẩu.
- Tập trung hoàn thành đầu tư 3 khu công nghiệp mới: Hòa Cầm (giai đoạn 2), Hòa Nhơn và Hòa Ninh theo hướng khu công nghiệp đô thị, dịch vụ, sinh thái; thực hiện chuyển đổi Khu Công nghiệp Hòa Khánh và nghiên cứu xây dựng đề án chuyển đổi các khu công nghiệp còn lại (Hòa Cầm, Liên Chiểu, Hòa Khánh mở rộng) thành khu công nghiệp sinh thái. Điều chỉnh quy hoạch Khu Công nghiệp Dịch vụ thủy sản Đà Nẵng theo hướng kết hợp hài hòa giữa các lĩnh vực chế biến thủy sản, dịch vụ, thương mại nhằm phát triển có hiệu quả về kinh tế gắn với bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái.
- Đầu tư xây dựng 4 cụm công nghiệp: Cẩm Lệ, Hòa Nhơn, Hòa Khánh Nam, Hòa Hiệp Bắc theo hướng cụm công nghiệp thân thiện với môi trường; điều chỉnh quy hoạch Cụm Công nghiệp Thanh Vinh (mở rộng). Chú trọng xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác trên lĩnh vực phi nông nghiệp, nhằm kiến tạo hệ sinh thái phát triển của một đô thị theo hướng bền vững. Rà soát quy hoạch, đầu tư Làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước, Làng nghề đá chẻ Hòa Sơn, khôi phục và phát triển Làng nghề Nước mắm Nam Ô, tạo sản phẩm du lịch đặc trưng của thành phố.
Thứ tư, phát triển công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT), điện tử, viễn thông gắn với nền kinh tế số:
Phát triển hạ tầng công nghiệp CNTT, phấn đấu đến năm 2025 có 4 Khu Công viên phần mềm và Khu CNTT và đóng góp khoảng 10% GRDP thành phố. Tập trung phát triển, ứng dụng, thương mại hóa các sản phẩm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông. Tăng cường liên kết vùng trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên trong công tác xây dựng và phát triển các sản phẩm CNTT; đẩy mạnh và nhân rộng các mô hình, sản phẩm ứng dụng CNTT đã triển khai hiệu quả giữa các địa phương thông qua diễn đàn CNTT khu vực. Phát triển nguồn nhân lực CNTT, bảo đảm đến năm 2025 có thêm 30.000 nhân lực phần mềm và nội dung số phục vụ thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp CNTT.
Thứ năm, đẩy mạnh phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và thực thi các chính sách kinh tế biển:
Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với quy mô vừa và lớn. Chú trọng phát triển nông nghiệp chủ lực, đặc trưng phục vụ đô thị và du lịch. Hình thành các vùng chuyên canh trồng lúa hữu cơ (1.500ha). Quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (rau, hoa, cây ăn quả) từ 100-150ha gắn với xây dựng, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao làm hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã, tổ hợp tác trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng, triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ trồng rừng nguyên liệu cây gỗ lớn.
Tiếp tục nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo vệ an ninh chủ quyền biển đảo; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác; tập trung thực hiện các giải pháp hiện đại hóa nghề cá, đảm bảo các tàu cá xa bờ được trang bị đầy đủ máy móc, thiết bị hiện đại, đảm bảo thực hiện các quy định về khai thác thủy sản theo thông lệ quốc tế (IUU). Nghiên cứu, xây dựng các mô hình nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản, mô hình chuỗi giá trị khai thác thủy sản gắn với dịch vụ hậu cần, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đầu tư hoàn thiện đồng bộ hạ tầng nghề cá tại Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang để tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá.
1.1.2. Triển khai thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng theo Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng và quốc tế, tạo động lực tăng trưởng mới
- Triển khai hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng và quốc tế, huy động và khai thác mạnh mẽ tiềm năng, các nguồn lực trong nước, ngoài nước để đầu tư phát triển thành phố theo các chương trình, kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII).
- Chủ động và tích cực kiến nghị với Trung ương: (1) Rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Vùng kinh tế trọng điểm, sớm triển khai xây dựng chiến lược phát triển kinh tế với mục tiêu xác định các ưu tiên trọng điểm cho mỗi địa phương gắn với lợi thế cạnh tranh của toàn vùng; (2) Quan tâm đầu tư, kêu gọi đầu tư hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến đường bộ liên tỉnh, các tuyến đường du lịch trên biển; hạ tầng và sản phẩm du lịch; kinh tế biển và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; phân công, chuyên môn hóa sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến thương mại, đầu tư; tạo cơ hội, điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào sự liên kết, nhằm tạo lập không gian kinh tế thống nhất toàn Vùng cùng phát triển, tăng sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Trong đó, thành phố Đà Nẵng tập trung đi sâu, hỗ trợ ở một số lĩnh vực: Khai thác, sử dụng hệ thống cảng biển, các sản phẩm công nghệ cao, chế biến hải sản; liên kết phát triển du lịch; (3) Từng bước phát triển một Trung tâm trung chuyển quốc tế với cảng biển và cảng hàng không hiện đại, cửa ngõ kết nối giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với thế giới và khu vực; một địa chỉ du lịch đặc sắc và đẳng cấp cao, liên kết với các địa phương trong Vùng, có sức hấp dẫn mạnh mẽ du khách, đặc biệt là nâng tầm vùng du lịch Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam về chất lượng dịch vụ và khác biệt sản phẩm. Mở rộng liên kết đầu tư, hình thành các trung tâm và chuỗi du lịch - dịch vụ gắn với con đường di sản văn hóa thế giới; liên kết với các địa phương theo trục hành lang kinh tế Đông - Tây để khai thác tốt các hoạt động dịch vụ vận tải.
1.1.3. Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp thu ngân sách, chống thất thu ngân sách gắn với nuôi dưỡng nguồn thu, tiếp tục thực hiện chủ trương cơ cấu lại đầu tư công, cơ cấu lại ngân sách nhà nước; tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư các công trình trọng điểm, có sức lan tỏa lớn, tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiếp tục thực hiện đầy đủ quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành về công khai ngân sách Nhà nước, tăng cường sự tham gia của công dân đối với quản lý ngân sách địa phương thông qua trang thông tin điện tử và thư điện tử, phấn đấu nằm trong các tỉnh, thành được đánh giá công khai đầy đủ về Chỉ số công khai ngân sách cấp tỉnh.
1.2. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, có trọng điểm, phù hợp với quy hoạch tổng thể thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
- Tập trung thực hiện tốt quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, gắn với Thiết kế chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2030 và quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm miền Trung theo hướng xác lập, phát huy vai trò, vị trí trung tâm của Đà Nẵng. Chú trọng công tác quản lý đô thị, tổ chức không gian đô thị hiện đại, hài hòa với thiên nhiên, bảo tồn và phát triển bản sắc đặc trưng của đô thị biển - sông - núi; nghiên cứu mở rộng không gian và phát triển các khu đô thị mới về hướng Tây, Tây Bắc theo hướng đô thị sinh thái, đô thị xanh; đô thị hóa gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát triển khu trung tâm thành phố theo hướng mô hình đô thị nén hiện đại để mở rộng không gian công cộng. Thực hiện thí điểm tái thiết đô thị ở một số khu vực quận Hải Châu, Thanh Khê. Chấn chỉnh trong công tác quản lý quy hoạch, xây dựng, rà soát các dự án không còn khả thi, mạnh dạn đề xuất hủy bỏ để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cộng đồng.
- Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh công tác đầu tư, tiến độ triển khai các dự án, công trình lớn, dư luận quan tâm trên địa bàn thành phố; tập trung thực hiện các công trình động lực, trọng điểm về kinh tế, xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục theo kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2026 phù hợp với Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045123; hoàn thiện và mở rộng mạng lưới vận tải hành khách công cộng, đảm bảo tính bao phủ, hiệu quả124; xúc tiến nghiên cứu khả thi hệ thống giao thông công cộng khối lượng lớn, tốc độ cao125, từng bước có giải pháp hạn chế phương tiện giao thông cá nhân vào khu vực trung tâm thành phố.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đô thị, đất đai, tài nguyên, môi trường. Tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực đất đai nhằm khơi thông nguồn lực để kêu gọi, thu hút đầu tư. Công khai, minh bạch quỹ đất có khả năng tổ chức đấu giá đất, kêu gọi đầu tư trên tất cả các lĩnh vực, chọn nhà đầu tư thực sự có tiềm lực về tài chính để triển khai dự án; hạn chế phân lô, bảo đảm các tiêu chuẩn đô thị hiện đại về diện tích đất phục vụ giao thông công cộng, công trình văn hóa, giáo dục, y tế, đất ở, mật độ cây xanh... Tăng cường quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, tiến tới dừng khai thác nhằm bảo vệ môi trường; tăng cường lãnh đạo, quản lý trật tự xây dựng, an toàn lao động trên địa bàn; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong quản lý trật tự xây dựng.
- Triển khai thực hiện Đề án xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường giai đoạn 2020-2025. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm, mang tính động lực về môi trường, cấp, thoát nước; tập trung triển khai Khu liên hợp xử lý chất thải rắn và các hạng mục thuộc Dự án phát triển bền vững126. Kiên quyết tổ chức thu hồi những dự án làm ảnh hưởng đến môi trường du lịch và môi trường đô thị. Rà soát, phân kỳ đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật các khu vực nông thôn, khu vực đô thị mới phát triển, đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn, dài hạn.
- Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn, nâng cao độ che phủ rừng; tổ chức điều tra đa dạng sinh học rừng; tập trung bảo vệ rừng đầu nguồn, đảm bảo an ninh nguồn nước; thu hút các dự án đầu tư bảo tồn đa dạng sinh học; bảo tồn, phát triển bền vững hệ thống rừng đặc dụng, phòng hộ, các khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà - Núi Chúa và Sơn Trà. Chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, công nghệ thông tin trong lĩnh vực phòng, chống, dự báo, cảnh báo sớm thiên tai, quản lý tưới tiêu, bảo vệ rừng. Ưu tiên đầu tư, xây dựng đồng bộ hệ thống công trình thủy lợi, đê, kè, đảm bảo an toàn các hồ chứa trong điều kiện biến đổi khí hậu; tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Đẩy mạnh triển khai Đề án Xây dựng thành phố thông minh; hoàn thành Trung tâm giám sát, điều hành và xử lý tập trung, đa nhiệm, tích hợp chức năng phân tích dữ liệu và dự đoán thông minh để phục vụ quản lý đô thị dựa trên dữ liệu số. Nâng cấp mở rộng Trung tâm Dữ liệu Đà Nẵng, bảo đảm an toàn an ninh thông tin và dự phòng thảm họa. Hoàn thành và đưa vào sử dụng 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4, kết hợp thanh toán qua mạng cho hầu hết các dịch vụ hành chính công và sự nghiệp công. Hoàn thành hệ thống quan trắc môi trường, hệ thống giám sát giao thông thông minh. Hoàn thiện hầu hết cơ sở dữ liệu chuyên ngành, nhất là trên lĩnh vực quy hoạch, đất đai, y tế, giáo dục, quản lý nhân khẩu; xây dựng nền tảng Kho dữ liệu dùng chung trong các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng. Xây dựng hạ tầng viễn thông tốc độ cao, phục vụ kết nối nền kinh tế số. Hoàn thành triển khai thẻ du lịch thông minh với đầy đủ các tiện ích; triển khai học liệu điện tử, phòng thí nghiệm ảo, lớp học thông minh; nhân rộng bệnh viện thông minh, triển khai chăm sóc y tế qua mạng.
1.3. Phát triển văn hóa - xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế, làm nền tảng cho thành phố phát triển bền vững, hướng đến xây dựng “thành phố đáng sống”
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao127, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học, doanh nhân và lao động lành nghề. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo chương trình giáo dục mới, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Phát triển, nâng cao chất lượng mạng lưới nhóm trẻ, nhà trẻ, trường mầm non. Thành lập trường phổ thông có nhiều cấp học đối với các trường có quy mô nhỏ.
Tập trung đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo, đánh giá kết quả học tập các cơ sở giáo dục đại học công lập và ngoài công lập; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo cán bộ; bám sát chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học khu vực và quốc tế. Kiến nghị Trung ương xem xét thành lập Đại học quốc gia Đà Nẵng trên cơ sở sắp xếp lại và đầu tư nâng cấp Đại học Đà Nẵng, các trường đại học trên địa bàn thành phố và các địa phương lân cận.
Tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục nghề nghiệp theo hướng linh hoạt, chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đào tạo nhân lực trình độ cao trong các ngành công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ chủ yếu. Tiếp tục hoàn thiện thị trường lao động, nâng cao năng lực dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu xâu dựng và phát triển thành phố. Thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa ngành giáo dục với chính quyền địa phương, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở, loại hình dịch vụ giáo dục.
- Ưu tiên nguồn lực phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, thực sự là động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phấn đấu đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 200 dự án khởi nghiệp sáng tạo, 100 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thương mại hóa được sản phẩm. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; thực hiện tốt việc sử dụng, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, đáp ứng việc tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học; ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
Thực hiện có hiệu quả chính sách khuyến khích doanh nghiệp quan tâm đổi mới công nghệ, sản phẩm nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh và nguồn nhân lực. Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Tập trung hoàn thành xây dựng bản đồ công nghệ ngành công nghệ thông tin và du lịch trên địa bàn thành phố nhằm chọn ra những công nghệ ưu tiên đổi mới, phát triển các sản phẩm chủ lực của thành phố.
- Kiện toàn, nâng cao chất lượng hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn thành phố và chủ động kiểm soát, ứng phó kịp thời với các dịch bệnh. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện và hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người bệnh; triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về y tế, công tác dự phòng và y tế cơ sở. Tiếp tục củng cố, kiện toàn mạng lưới y tế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Đẩy mạnh thực thi và nâng cao hiệu quả các chính sách xã hội về y tế; xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế đảm bảo số lượng và chất lượng, hợp lý theo chức danh nghề nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề.
- Xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao lành mạnh; nếp sống văn hóa, văn minh đô thị giàu tính nhân văn, sáng tạo, thông minh, bền vững, để con người phát triển toàn diện. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ các sự kiện, lễ hội lớn của thành phố nhằm tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí và hưởng thụ văn hóa càng ngày càng cao của người dân và du khách; đồng thời, góp phần gìn giữ và phát huy các di sản, di tích, giá trị văn hóa lịch sử truyền thống tốt đẹp của thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Tiếp tục duy trì thực hiện các nội dung chủ trương Năm văn hóa, văn minh đô thị, hình thành thói quen ứng xử, thực hiện tốt các chuẩn mực văn hóa - văn minh đô thị. Rà soát thực trạng triển khai, đánh giá kịp thời và tập trung đồng bộ nguồn lực đầu tư triển khai xây dựng nếp sống văn hóa theo từng chủ đề.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật, đặc biệt chú trọng đầu tư nguồn nhân lực. Khuyến khích, phát huy năng lực, tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ thông qua chính sách “đặt hàng sáng tác”, ưu tiên tác phẩm về đề tài bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc hoặc bám sát thực tiễn cuộc sống, triển khai biên soạn bộ thông sử Đà Nẵng; giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống.
Tiếp tục rà soát, thực hiện quy hoạch phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội gắn với rà soát, điều chỉnh Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tập trung đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa, thể thao tiêu biểu và các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở theo quy hoạch được phê duyệt. Phối hợp chặt chẽ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư ngân sách trong việc tu bổ, tôn tạo các di tích, di sản văn hóa, nhất là thực hiện nhiệm vụ lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn128. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về văn hóa, đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp với hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế129.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội vào sự nghiệp xây dựng văn hóa, thể thao; tham gia sáng tạo, phổ biến và kinh doanh trên lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật. Tiếp tục tổ chức các sự kiện mang tầm quốc tế và khu vực như: Cuộc thi Ironman 70.3 Việt Nam; Cuộc thi Marathon quốc tế Đà Nẵng; Dù lượn Đà Nẵng mở rộng... Nghiên cứu thành lập mới một số liên đoàn thể thao phù hợp với sự phát triển của thành phố nhằm phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao và đẩy mạnh thể thao thành tích cao.
- Nâng cao hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn như các chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “4 an”. Tiếp tục thực hiện tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chế độ, chính sách đối với người có công cách mạng. Hoàn thiện hệ thống các chính sách giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội, phát triển hệ thống dịch vụ trợ giúp xã hội; huy động nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tệ nạn xã hội. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới, bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng, chống bạo lực gia đình, hướng tới thành phố an toàn, thân thiện với phụ nữ và trẻ em.
Thực hiện tốt thông tin thị trường lao động, việc làm, kết nối hiệu quả thông tin giữa người sử dụng lao động và người lao động; tăng cường những giải pháp hữu hiệu về giải quyết việc làm. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cải tiến chất lượng chương trình, giáo trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, xã hội và định hướng phát triển của thành phố.
2. Về quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và cải cách tư pháp
- Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân; xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, biển, đảo trong tình hình mới theo Kết luận số 64-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa X) về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng vũ trang thành phố trong sạch vững mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; thực hiện tốt công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; tổ chức diễn tập phòng thủ các cấp có chất lượng; chủ động bồi dưỡng, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đủ số lượng, bảo đảm chất lượng.
Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh130; đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ. Công tác gọi công dân nhập ngũ hằng năm đạt 100% chỉ tiêu. Nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng; tăng cường giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo, lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các chế độ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với dân quân tự vệ, dự bị động viên.
- Chủ động nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, thực hiện có hiệu quả hơn các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác bảo vệ an ninh quốc gia131, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, xây dựng thành phố là điểm đến an toàn, thân thiện về cả an ninh truyền thống và phi truyền thống. Triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, an ninh xã hội, tôn giáo, dân tộc, tranh chấp, khiếu kiện, đình công, lãn công, không để xảy ra điểm nóng. Quản lý chặt chẽ các loại đối tượng hình sự; quản lý người nước ngoài nhập cảnh, lưu trú, làm ăn trên địa bàn thành phố. Chủ động các phương án, kế hoạch phòng ngừa các loại tội phạm mới như tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, liên khu vực, tội phạm kinh tế, tội phạm ma túy. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị, kiềm chế và giảm dần tai nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí. Tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, gắn với chương trình Thành phố 4 an.
- Tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương của Trung ương về công tác cải cách tư pháp, xác định Tòa án là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cải cách mạnh mẽ nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng tinh thông nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vụ án, vụ việc liên quan đến sử dụng công nghệ cao, có yếu tố nước ngoài cần phải thực hiện tương trợ tư pháp; tránh làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, tăng cường năng lực giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với vai trò bảo vệ công lý, công bằng của các cơ quan tư pháp.
3. Về công tác xây dựng - chỉnh đốn Đảng
- Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nhất là thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nghị quyết của Trung ương về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đổi mới học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng hơn nữa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Nâng cao tính dự báo, định hướng dư luận xã hội, thông tin nhanh, kịp thời những vấn đề nhạy cảm, nổi cộm, tạo sự đồng thuận, đoàn kết.
- Tiếp tục hoàn thiện sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với chủ trương tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 18-NQ/TW về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) và Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời, tiến hành tổ chức sắp xếp các cơ quan và đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống chính trị trong thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết Quốc hội.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy các cấp, các quy định và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Điều chỉnh, bổ sung quy định về mối quan hệ công tác cấp ủy và việc tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát đối với chính quyền thành phố ở quận và phường trong thực hiện chính quyền đô thị. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; thực hiện nghiêm túc yêu cầu về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nghiên cứu thực hiện các giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, sát với tình hình thực tiễn. Phấn đấu 100% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ trở lên; công tác kết nạp đảng viên mới cần chú trọng nâng cao chất lượng. Thực hiện các giải pháp khắc phục tình trạng đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng ở các khu dân cư.
- Thực hiện tốt các chủ trương, quy định mới của Trung ương và Thành ủy về công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ132, đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố toàn diện, bền vững, trở thành trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp; tỷ lệ nữ là lãnh đạo, quản lý, nữ cấp ủy viên, nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố và Hội đồng nhân dân huyện Hòa Vang đạt theo tiêu chí của Trung ương định hướng.
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; nâng cao nhận thức và xác định trách nhiệm của cấp ủy, bí thư cấp ủy trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Cấp ủy các cấp thuộc Đảng bộ thành phố lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, bảo đảm khoa học, tránh chồng chéo, trùng lắp. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những địa bàn, lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, sai phạm và cán bộ, công chức thực thi công vụ, thường xuyên sự tiếp xúc với người dân, doanh nghiệp. Quan tâm kiểm tra, giám sát các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy trong việc chấp hành Quy chế làm việc, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Coi trọng kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng; tập trung kiểm tra, giám sát việc khắc phục các khuyết điểm sau kiểm tra, giám sát. Kiên quyết xem xét, xử lý triệt để, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả xử lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng bộ thành phố trong sạch, công tâm, giỏi nghiệp vụ. Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Triển khai sâu rộng phong trào thi đua Dân vận khéo. Đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân vận theo hướng gần dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân. Mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia đối thoại trực tiếp với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Kịp thời nắm bắt, giải quyết những vấn đề nổi cộm, những phản ánh, kiến nghị, bức xúc của nhân dân; vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách giải tỏa, đền bù, tái định cư tại các dự án lớn, trọng điểm. Tăng cường công khai, minh bạch các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các đề án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội để Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân biết, giám sát và phản biện. Tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống dân vận các cấp; có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác dân vận, lực lượng cốt cán.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiếp công dân và xử lý đơn thư; tập trung nắm chắc địa bàn, đối tượng, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; nêu cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiếp công dân ở địa phương.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo Luật Phòng, chống tham nhũng, trọng tâm là tăng cường cải cách hành chính theo hướng công khai, minh bạch, chặt chẽ; xử lý nghiêm các vụ án, vụ việc và cán bộ, đảng viên liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiến nghị xử lý các vụ “tham nhũng vặt” ngay từ đầu, giữ vững niềm tin trong nhân dân. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng. Bảo vệ và kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp theo hướng nâng cao tính khả thi trong ban hành nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; tăng cường phân cấp, ủy quyền theo đúng quy định cho cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu, giúp việc đi đôi với thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc, những vấn đề có tính nguyên tắc trong Đảng; xác định rõ, cụ thể, tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nêu cao vai trò người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, điều hành; thực hiện tốt Quy chế chất vấn trong Đảng; tăng cường cải cách hành chính trong Đảng, ứng dụng công nghệ thông tin trong lãnh đạo, điều hành của thường trực cấp ủy và của các cơ quan tham mưu, giúp việc.
4. Về công tác xây dựng chính quyền
Triển khai thí điểm mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết của Quốc hội và tinh thần Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tiến hành nhanh chóng, chặt chẽ việc tổ chức lại bộ máy và đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống chính trị các quận, phường khi thực hiện thí điểm chính quyền đô thị theo quy định của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền.
Đẩy mạnh phân cấp, giao quyền gắn với tăng cường trách nhiệm cho các địa phương, đơn vị trên một số lĩnh vực, phù hợp với mô hình chính quyền đô thị. Ban hành đồng bộ, kịp thời, sửa đổi và bổ sung những quy định cụ thể về mối quan hệ công tác và việc tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với chính quyền thành phố, quận và phường theo mô hình chính quyền đô thị để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, phục vụ doanh nghiệp và người dân.
Tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính, các cơ quan chuyên môn, tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với việc tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương. Sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm số lượng cấp phó. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục tối đa tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Rà soát các đơn vị hành chính chưa đạt 50% tiêu chuẩn về dân số, diện tích tự nhiên để tổ chức lại phù hợp với quy định.
Đổi mới, nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố và Hội đồng nhân dân huyện Hòa Vang; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân các cấp theo mô hình chính quyền đô thị. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp trong công tác cải cách hành chính; đổi mới và phát huy vai trò của các Tổ đại biểu, từng đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố, của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính.
Thực hiện nghiêm quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ, bảo đảm chặt chẽ, minh bạch, công bằng; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý; hình thành được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định; trong đó, xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp bảo đảm uy tín, chất lượng, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng chính sách bảo đảm cân đối hài hòa giữa công tác đào tạo và việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; kết hợp chặt chẽ giữa trọng thị, trọng dụng và trọng đãi người tài; chú trọng đào tạo, thu hút các chuyên gia đầu ngành để bổ nhiệm vị trí việc làm là trưởng ở các ban, ngành của thành phố. Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; áp dụng vị trí việc làm trong tuyển dụng. Cơ quan sử dụng cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả; người đứng đầu chịu trách nhiệm chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Tỷ lệ nữ là lãnh đạo, quản lý, nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt theo tiêu chí của Trung ương.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; đẩy mạnh việc giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng, cắt giảm mạnh thủ tục và thời gian giải quyết các yêu cầu chính đáng của tổ chức và công dân, phấn đấu hình thành chính quyền điện tử, hướng đến mô hình thành phố thông minh.
5. Về nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Tăng cường sự lãnh đạo và trách nhiệm của các cấp ủy đảng trong việc lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận, đoàn thể từ thành phố đến cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Phát huy hệ thống Mặt trận thành phố cùng các tổ chức thành viên, các hội quần chúng, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; vận động tập hợp nhân dân, tăng cường sự đồng thuận, thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Đề ra các giải pháp hiệu quả, thiết thực, tạo sự chuyển biến trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; hướng về cơ sở, kịp thời nắm bắt tình hình nhân dân, thực hiện tốt hơn công tác giám sát và phản biện xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Đặc biệt, nâng cao vai trò giám sát trách nhiệm, tổ chức thực hiện của người đứng đầu cơ quan hành chính quận, phường trong mô hình chính quyền đô thị. Tích cực vận động nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố.
Củng cố tổ chức Công đoàn các cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; chú trọng bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp, nhận thức pháp luật, trình độ học vấn, tay nghề và chăm lo cải thiện đời sống công nhân, người lao động. Xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp; xây dựng đội ngũ công nhân thành phố ngày càng lớn mạnh, tích cực xây dựng và phát triển thành phố.
Phát huy vai trò của nông dân thành phố trong xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ, tiên phong thực hiện mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp phục vụ đô thị, nông nghiệp công nghệ cao và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Tổ chức hoạt động nông nghiệp theo hướng liên kết vùng, xây dựng mối quan hệ hữu cơ giữa nhà nông với doanh nghiệp trong sản xuất và cung ứng. Tổ chức hướng dẫn, đào tạo nâng cao tay nghề và phương thức canh tác, trồng trọt hiện đại.
Trau dồi lý tưởng cách mạng, nâng cao nhận thức chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống lành mạnh trong đoàn viên và thanh niên. Quan tâm chăm lo, tạo điều kiện, môi trường để thanh niên học tập, lao động, giải trí lành mạnh, tham gia các hoạt động trẻ, tình nguyện góp phần xây dựng và bảo vệ thành phố. Khơi dậy, phát huy khả năng sáng tạo, tinh thần xung kích, sẵn sàng dấn thân của tuổi trẻ trên các lĩnh vực. Mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội vững mạnh; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên từ các đoàn viên ưu tú.
Phát huy vai trò phụ nữ thành phố trong thực hiện hiệu quả các phong trào, các cuộc vận động, tham gia thực hiện các mục tiêu, chính sách bình đẳng giới và bảo đảm an toàn cho phụ nữ và trẻ em; chăm lo đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho phụ nữ. Đề cao vai trò phụ nữ trong lao động, học tập, hoạt động xã hội, chăm lo xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Thực hiện tốt chính sách đối với cựu chiến binh, lão thành cách mạng, hưu trí, gia đình chính sách và người cao tuổi; phát huy vai trò của cựu chiến binh, cán bộ hưu trí trong gia đình và xã hội, trong công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền.
Tiếp tục thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ phát huy sáng tạo phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển thành phố. Phát triển cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân thành phố; động viên, khơi dậy tiềm năng, ý thức trách nhiệm của doanh nhân trong phát triển kinh tế - xã hội, vận động doanh nhân tích cực đầu tư sản xuất, kinh doanh để làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và góp phần làm giàu cho xã hội.
Thực hiện tốt chính sách và chăm lo cải thiện đời sống đối với đồng bào các dân tộc. Động viên, khuyến khích đồng bào các tôn giáo xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp, đóng góp vào sự phát triển của thành phố. Đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài và bà con quê hương Đà Nẵng trên khắp mọi miền của đất nước hướng về thành phố, tích cực đầu tư, đóng góp để xây dựng quê hương.
Với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân thành phố, Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXI tổng kết, đánh giá nghiêm túc việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ XXI và đề ra phương hướng nhiệm kỳ Đại hội XXII Đảng bộ thành phố. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tin tưởng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, sáng tạo, phát huy phẩm chất anh hùng, toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ XXII, xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.
_______________________________________________________
1. Triển khai thực hiện Kết luận số 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng; Đà Nẵng được chọn tổ chức Tuần lễ Cấp cao APEC 2017, qua đó thương hiệu Đà Nẵng tiếp tục được khẳng định ở tầm cao mới; Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày
24-1-2019 về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Thay đổi chính sách về thương mại, mậu dịch giữa các đối tác lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc.
3. (1) Tập trung khắc phục các sai phạm, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trên lĩnh vực quy hoạch, đất đai, xây dựng, đô thị theo các kết luận của Thanh tra Chính phủ. (2) Tiến hành kiểm điểm, xác định trách nhiệm, hình thức kỷ luật và đề ra giải pháp khắc phục sai phạm, khuyết điểm đối với các tập thể, cá nhân theo Thông báo số 292-TB/UBKTTW ngày 21-9-2017 của UBKT Trung ương về kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2015-2020 và các cá nhân liên quan. (3) Phối hợp với các cơ quan tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án Phan Văn Anh Vũ và các lãnh đạo chủ chốt thành phố ở các thời kỳ này. (4) Tiến hành rà soát, điều chỉnh, khắc phục những bất cập trong quy hoạch phát triển, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, phục vụ tốt hơn cho cộng đồng. (5) Điều chỉnh hoặc dừng hoạt động cơ sở sản xuất, các dự án đầu tư do ảnh hưởng môi trường, phát sinh các khiếu kiện của một số doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân liên quan. (6) Hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng cấp nước sinh hoạt nhiều khu vực năm 2019; đặc biệt, dịch bệnh Covid-19 bùng phát từ cuối năm 2019 khiến các ngành dịch vụ, nhất là du lịch suy giảm mạnh.
4. Phối hợp Ban Kinh tế Trung ương tham mưu Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24-1-2019 về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 - đây là văn kiện có tính định hướng quan trọng, lâu dài, với nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, đột phá, mở ra nhiều cơ hội, tiềm năng lớn để thành phố phát triển. Chỉ đạo tích cực triển khai xây dựng Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, gắn với chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2030 thành phố.
5. Dự kiến GRDP năm 2020 chỉ đạt 6,17% (NQ: tăng 9%) do nhiều tác động khách quan, nhất là dịch bệnh Covid-19.
6. Dân số thành phố đến năm 2020 chỉ đạt 1,16 triệu dân (Nghị quyết: đạt 1,36 triệu dân).
7. Phương pháp tính toán cơ cấu GRDP có bổ sung yếu tố thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm.
8. Năm 2018, thành phố hoàn thành chỉ tiêu xóa hộ nghèo giai đoạn 2016-2020 (thành thị: 1.300.000 đồng và nông thôn 1.100.000 đồng/người/tháng). Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,04% là tính theo chuẩn nghèo mới theo hướng tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020, áp dụng trong 2 năm 2019-2020 trên địa bàn thành phố.
9. Nghị quyết Đại hội XXI Đảng bộ thành phố có các chỉ tiêu: giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 9,5-10,5%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 10-11%/năm và tăng 2-3%/năm; tuy nhiên, theo Quyết định số 54/2016/QĐ-TTg về ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã thì chỉ tiêu giá trị sản xuất không còn nằm trong hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh nên không thực hiện đánh giá.
10. Năm 2015, trong tổng GRDP thành phố (giá hiện hành), kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng 25,3%, kinh tế ngoài nhà nước chiếm 54,8%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 8,9% và thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) chiếm 11%. Đến năm 2020, tỷ lệ này ước đạt lần lượt là: 23,3% - 53,5% - 12% - 11,2%.
11. Các cơ sở lưu trú chất lượng quốc tế được đầu tư, hoàn thành và đưa vào sử dụng: Trung tâm hội nghị quốc tế Ariyana, khách sạn Sheraton, mở rộng Khu nghỉ dưỡng InterContinental Danang Sun Peninsula, Nam An Retreat, Mường Thanh Luxury, Vinpearl Resort & Spa, Risemount Premier Resort, Sheraton Grand, Da Nang Golden Bay, Grand Tourance…
12. Khu du lịch Sun World Bà Nà Hills; Khu phức hợp giải trí Cocobay; Công viên Châu Á, Công viên suối khoáng nóng Núi Thần Tài, hệ thống các sân golf Bà Nà Hills Golf Club, BRG Danang Golf Resort...
13. Bán đảo Sơn Trà với các điểm dừng chân tham quan, du lịch sinh thái; các tuyến leo núi tại khu vực phía tây thành phố; du lịch cộng đồng bắt đầu được khai thác với việc khai trương dịch vụ homestay tại Làng văn hóa Cơ tu.
14. Đến năm 2020, có 40 đường bay quốc tế đến Đà Nẵng với tần suất 480 chuyến/tuần, tăng 20 đường bay so với năm 2015 và 8 đường bay nội địa với tần suất 647 chuyến/tuần.
15. 8 trung tâm thương mại tổng hợp, 64 siêu thị, 70 chợ các loại, 230 cửa hàng chuyên doanh, tiện lợi và tự chọn.
16. Thấp hơn mục tiêu Nghị quyết đề ra (15-16%/năm). Trong đó, tốc độ tăng bình quân của các mặt hàng chủ lực: Dệt may 10,8%; hải sản đông lạnh 4%; thiết bị điện và sản phẩm điện tử tăng 12%; thủ công mỹ nghệ và sản phẩm gỗ 11,8%; cao su thành phẩm 29%; đồ chơi trẻ em 10%.
17. Cơ cấu tương ứng năm 2015 là 83,6% - 15,6% - 0,8%.
18. Cơ cấu thị trường xuất khẩu bình quân giai đoạn 2015-2020: Nhật chiếm 30-35%, Hoa Kỳ chiếm 17-20%, EU chiếm 15-16%, Trung Quốc chiếm 10-11%... trong tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố.
19. Triển khai công nghệ 4G phủ sóng thành phố, triển khai tuyến cáp quang biển (SMW3, APG); Trung tâm dữ liệu thành phố có dung lượng lưu trữ lên đến 100 TB; Mạng đô thị thành phố (mạng MAN); Hệ thống wifi công cộng thành phố.
20. Với 57 chi nhánh tổ chức tín dụng và 249 phòng giao dịch.
21. Thành phố chú trọng phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin; chủ động tham mưu, cụ thể hóa Nghị định số 04/2018/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với Khu Công nghệ cao Đà Nẵng; ban hành các Quy định chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ thành phố Đà Nẵng.
22. 18 06 khu công nghiệp tập trung, diện tích 1.066,52ha.
23. Giai đoạn 1 (405ha), giai đoạn 2 (65% tương ứng 217ha).
24. KCN Hòa Cầm giai đoạn 2 (125,01ha), Hòa Nhơn (360,1ha) và Hòa Ninh (400,02ha).
25. CCN Cẩm Lệ (29,09ha), Hòa Nhơn (24,75ha), Hòa Hiệp Bắc (14,48ha), Hòa Khánh Nam (11,8ha).
26. Khu Công viên phần mềm Đà Nẵng (10.885,6 m2), Khu Công nghệ thông tin Đà Nẵng (131ha), Khu Công viên phần mềm số 2 (5,3ha), Khu FPT Complex Đà Nẵng (33ha).
27. Tổng vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ 2015-2020 ước đạt trên 7.550 tỷ đồng. Tỷ trọng giá trị tăng thêm (VA) các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong cơ cấu VA toàn ngành công nghiệp tăng từ 22% năm 2015 lên 24% năm 2020.
28. Đề án mở rộng Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước (từ 35ha tăng lên 41,8ha); Đề án phát triển Làng nghề đá chẻ Hòa Sơn (9,75ha); Đề án bảo tồn làng nghề nước mắm Nam Ô gắn với phát triển du lịch.
29. Trung tâm dịch vụ logistics Hòa Vang (20ha); Ga hàng hóa phục vụ logistics tại phía Bắc Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng (2ha); Trung tâm Thương mại và dịch vụ logisitcs Khu Công nghệ cao Đà Nẵng (9,1ha).
30. Chợ đầu mối thủy sản Thọ Quang diện tích 15.937m², sản lượng thủy sản qua chợ 110.000 tấn/năm; Khu Công nghiệp dịch vụ thủy sản Thọ Quang diện tích 58 ha, hiện có trên 23 doanh nghiệp chế biến thủy sản nội địa và xuất khẩu vào các thị trường EU, Mỹ, Nhật... với giá trị xuất khẩu gần 200 triệu USD/năm.
31. Thành phố hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa với tổng kinh phí 426,86 tỷ đồng.
32. Số tàu thuyền công suất 90 CV trở lên tăng từ 461 chiếc năm 2015 lên 690 chiếc năm 2020, sản lượng khai thác tăng bình quân 2,3%/năm; khởi công Dự án nâng cấp Cảng cá Thọ Quang thành cảng cá loại 1 cấp quốc gia, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, môi trường tại khu vực Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang…
33. Hình thành 18 cánh đồng sản xuất lúa hữu cơ; các vùng chuyên canh trồng rau an toàn, trồng hoa, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản tập trung... tại Hòa Vang.
34. Đã quy hoạch chi tiết TL 1/500 vùng sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, công nghệ cao ở huyện Hòa Vang.
35. Tổng diện tích rừng và đất quy hoạch phát triển rừng là 66.397,48ha. Giai đoạn 2015-2020, trồng mới hơn 550ha rừng đặc dụng, phòng hộ; có 259,54ha rừng trồng được cấp chứng nhận bảo vệ rừng (FSC).
36. Trong đó: thu nội địa ước thực hiện 110.705,7 tỷ đồng, đạt 106,8% dự toán; thu nội địa không kể tiền sử dụng đất ước thực hiện 93.925,7 tỷ đồng, đạt 101,9% dự toán, tăng bình quân 18,0%/năm; số thu thuế xuất nhập khẩu ước thực hiện 18.749,8 tỷ đồng, đạt 115,4% dự toán, tăng bình quân 11,2%/năm.
37. Từ năm 2015-2020, thực hiện thanh tra và công bố kết luận 47 cuộc thanh tra, kiến nghị thu hồi các khoản chi không đúng chế độ quy định 15,22 tỷ đồng.
38. Giai đoạn 2015-2020, phê duyệt 1.295 đồ án quy hoạch.
39. Quyết định số 393/QĐ-TTg ngày 18-3-2020 của Thủ tướng Chính phủ, thay thế Quyết định số 1866/QĐ-TTg ngày 8-10-2010.
40. Gồm: Khu vực đô thị cũ (khoảng 3.263,92ha); khu ven biển Tây Bắc (khoảng 3.647,12ha); khu ven biển phía Đông (khoảng 3.330,81ha); khu vực phía Tây (khoảng 13.605,89ha); khu vực bán đảo Sơn Trà (khoảng 4.383,39ha); khu vực phía Nam (khoảng 9.075,76ha), khu vực đồi núi phía Tây và huyện đảo Hoàng Sa (khoảng 91.181ha).
41. Các xã Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Nhơn, Hòa Sơn, Hòa Liên có tỷ lệ đô thị hóa cao; các xã Hòa Tiến, Hòa Phong, Hòa Khương từng bước đô thị hóa một phần; các xã Hòa Phú, Hòa Bắc, Hòa Ninh chủ yếu triển khai các dự án du lịch.
42. Từ 2017 đến nay đã kiểm tra 165 dự án, khu đất về tiến độ sử dụng đất theo quy định.
43. Thành phố có 6 trạm xử lý nước thải đô thị tập trung, thu gom đạt 65% lượng nước thải đô thị; 13/15 điểm nóng được xử lý triệt để, 2 điểm nóng phức tạp được kiềm chế; đưa vào hoạt động các công trình xử lý điểm nóng môi trường, góp phần cải thiện đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
44. Trong đó: vốn trong nước là 37.130,29 tỷ đồng (nguồn ngân sách tập trung 13.724,944 tỷ đồng; nguồn thu tiền sử dụng đất 10.873,55 tỷ đồng; nguồn thu xổ số kiến thiết 779,918 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương bổ sung có mục tiêu 2.792,758 tỷ đồng); vốn nước ngoài (ODA): 6.350,889 tỷ đồng.
45. Ban hành Chương trình Phát triển khởi nghiệp Đà Nẵng 2016; phê duyệt Đề án Xây dựng Vườn ươm Doanh nghiệp và thành lập Công ty TNHH Đầu tư và Hỗ trợ khởi nghiệp Đà Nẵng theo mô hình hợp tác công - tư đầu tiên trong cả nước; tiếp tục triển khai Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025.
46. Tại Tọa đàm mùa xuân 2019, thành phố đã trao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 8 dự án tương đương 492,387 triệu USD và Thông báo cho phép nghiên cứu cho 11 dự án tương đương khoảng 3.483 triệu USD.
47. Các chính sách về khoa học và công nghệ, lao động, thông tin, truyền thông, hỗ trợ lãi suất, mặt bằng, hỗ trợ phát triển công nghiệp...
48. Thành phố thuộc nhóm dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chỉ số cải cách hành chính, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh, chỉ số sẵn sàng phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin nhiều năm liền.
49. Giai đoạn 2015-2020 trên địa bàn thành phố có 23.110 doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện đăng ký thành lập mới với tổng vốn điều lệ đăng ký là 104.049 tỷ đồng.
50. Dự án Phát triển bền vững thành phố Đà Nẵng do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ; Dự án Trung tâm khu vực miền Trung về y học hạt nhân và xạ trị tại Bệnh viện Đà Nẵng do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ; Dự án Hạn mức tín dụng của Cơ quan phát triển Pháp dành cho Quỹ Đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng; Dự án Quỹ Đầu tư phát triển địa phương do WB tài trợ; Dự án cải thiện hạ tầng giao thông thành phố Đà Nẵng do OFID tài trợ.
51. Lũy kế đến cuối năm 2019, trên địa bàn thành phố có 30.806 doanh nghiệp và chi nhánh, văn phòng đại diện đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký đạt 209.316 tỷ đồng.
52. Đã thu hút 46 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 52.416,89 tỷ đồng; cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư cho 457 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký 922,042 triệu USD; có 51 dự án tăng vốn, tổng vốn tăng thêm đạt 129,43 triệu USD; có 525 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức kinh tế với tổng vốn 208,064 triệu USD.
53. Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hiệp hội các thành phố Châu Á chống chịu với biến đổi khí hậu (ACCCRN), Diễn đàn Thị trưởng tại Hội nghị Thượng đỉnh các thành phố châu Á - Thái Bình Dương và Hội nghị Thượng đỉnh các thành phố thế giới, Mạng lưới vùng các chính quyền địa phương về quản lý định cư của con người (CITYNET), Trung tâm thông tin đô thị châu Á tại Kobe (AUICK), Diễn đàn 100 thành phố chống chịu với biến đổi khí hậu (100RC), Mạng lưới các chính quyền địa phương vì phát triển bền vững vùng bờ của Tổ chức Đối tác quản lý môi trường biển Đông Á (PNLG), Mạng lưới thành phố thông minh ASEAN (ASCN).
54. Thành phố đã thiết lập quan hệ hợp tác với 42 địa phương nước ngoài thuộc 20 quốc gia và vùng lãnh thổ với 85 bản thỏa thuận, ghi nhớ hợp tác còn hiệu lực.
55. Hội chợ quốc tế Thương mại - Du lịch và Đầu tư Hành lang kinh tế Đông - Tây (thường niên), Hội thảo Cộng đồng ASEAN 2015 và tác động đối với hợp tác khu vực trên Hành lang Kinh tế Đông Tây (2014), Đại hội biển Đông Á (2015), Triển lãm khởi nghiệp quốc tế Start-up Fair (thường niên từ năm 2016 đến nay), Tọa đàm kết nối doanh nghiệp nhân sự kiện Cuộc đua thuyền buồm vòng quanh thế giới (Clipper Race) 2015-2016, Cuộc họp Hội đồng Thống đốc Quỹ Á - Âu lần thứ 37 (BOG-37, 2017) và nổi bật nhất là Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được tổ chức vào tháng 11-2017.
56. Mở rộng Hầm đường bộ Hải Vân; nâng cấp, mở rộng ga hàng không quốc tế Đà Nẵng; Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi...
57. Năm 2020, ước vốn đầu tư phát triển khu vực nhà nước chiếm 20,7%, khu vực ngoài nhà nước (dân cư, tư nhân) chiếm 64,3% và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 15%.
58. Các trường hợp trong danh sách Kết luận số 2852/KL-TTCP (đã nộp 635,9/1.002,9 tỷ đồng); các trường hợp giảm 5%, 10% tiền sử dụng đất theo Kết luận của Thanh tra Chính phủ (đã nộp 230/865,68 tỷ đồng); các trường hợp tương tự ngoài danh sách Kết luận số 2852/KL-TTCP (31 tỷ đồng).
59. Năm học 2019-2020, có 204 trường mầm non, 99 trường tiểu học, 59 trường THCS, 32 trường THPT. Đến năm 2020, có 51 trường mầm non, 74 trường tiểu học, 32 trường THCS, 5 trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
60. Trong 5 năm 2015-2020, toàn thành phố xây dựng được 2.016 phòng học các loại.
61. Đến tháng 9-2019, số người biết chữ trong độ tuổi từ 15-60 đạt tỷ lệ 99.53%, độ tuổi từ 15-35 đạt tỷ lệ 99.9%. 100% quận, huyện tiếp tục duy trì và giữ vững kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở, trung học cơ sở đúng độ tuổi, phổ cập bậc trung học.
62. Tính đến năm 2020, trên địa bàn thành phố có 64 cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
63. Hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu khoa học với 2 dự án thuộc Chương trình Nông thôn miền núi, 4 đề tài cấp thành phố, 5 đề tài cấp cơ sở và hướng dẫn 1 doanh nghiệp tham gia tuyển chọn 1 đề tài cấp quốc gia. Các đề tài, dự án chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dược liệu, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật và công nghệ …
64. Đến cuối năm 2015 đã có 100% xã, phường đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020, dẫn đầu cả nước và hoàn thành vượt chỉ tiêu trước 5 năm trong thực hiện mục tiêu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020.
65. Từ năm 2015 đã đạt vượt các chỉ tiêu thiên niên kỷ so với toàn quốc.
66. Đà Nẵng là thành phố thứ 2 trên cả nước thành lập Ban Quản lý An toàn thực phẩm.
67. Năm 2016, nghệ thuật hô/hát Bài chòi dân gian ở Đà Nẵng được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, góp phần vào việc nghệ thuật bài chòi Trung Bộ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2017. Đã triển khai tu bổ, phục hồi và tôn tạo Thành Điện Hải là di tích cấp quốc gia đặc biệt; phối hợp với tỉnh Thừa Thiên - Huế khởi công khai quật khảo cổ Di tích Hải Vân Quan; chỉ đạo trùng tu, tôn tạo, phát huy giá trị của quần thể di tích văn hóa, lịch sử tại Nam Ô (Liên Chiểu); Hệ thống đình làng, danh thắng Ngũ Hành Sơn, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Nhà Trưng bày Hoàng Sa, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố; sửa chữa, nâng cấp Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Nhà hát Trưng Vương, Rạp Lê Độ, Nhà Văn hóa thiếu nhi thành phố... quyết định sử dụng các cơ sở số 42, 44 Bạch Đằng và 31 Trần Phú để cải tạo, nâng cấp thành Bảo tàng Đà Nẵng, dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2020-2022. Riêng 2 công trình Nhà hát lớn và Trung tâm văn hóa biểu diễn nghệ thuật do dự án Khu đô thị Đa Phước đang trong tình trạng thanh tra toàn diện nên chưa được triển khai.
68. Thành phố hiện có 5 cơ quan báo chí, 113 cơ quan báo chí Trung ương và địa phương khác đặt văn phòng đại diện.
69. Hợp tác truyền thông với 9 cơ quan báo chí trung ương và địa phương; Thành lập Tổ công tác thông tin báo chí; tổ chức Giải báo chí về các chủ đề: Thành phố môi trường; Chương trình thành phố 4 an; Năm đẩy mạnh thu hút đầu tư.
70. Bước đầu có 4 bộ môn được các doanh nghiệp, Liên đoàn đầu tư, chi trả kinh phí thi đấu các giải quốc gia.
71. Quyết định số 2526-QĐ/TU ngày 30-11-2016 của Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Đề án thực hiện chương trình “Thành phố 4 an” đến năm 2020: An toàn giao thông, An toàn thực phẩm, An ninh trật tự và An sinh xã hội.
72. Giải quyết chế độ, chính sách cho hơn 13.000 lượt đối tượng; hỗ trợ người có công với cách mạng sửa chữa, xây mới trên 8.000 nhà ở, với kinh phí trên 250 tỷ đồng; 100% mộ, nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn thành phố đã được đầu tư nâng cấp khang trang; ban hành nhiều chính sách đặc thù và nâng mức hỗ trợ cho hơn 33.000 đối tượng bảo trợ xã hội.
73. Duy trì tỷ lệ 98% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, giúp đỡ và tỷ lệ 100% xã, phường đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em đến cuối năm 2018.
74. Các chính sách chữa trị miễn phí cho trẻ em nghèo bệnh tim bẩm sinh, phụ nữ nghèo bị ung thư, bảo trợ xã hội hằng tháng cho người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi ốm đau thường xuyên; chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, sinh kế đã giúp cho hàng chục nghìn đối tượng được thụ hưởng; các đề án, chương trình như: đề án sàn giao dịch việc làm; đề án cập nhật biến động cơ sở dữ liệu về cung và cầu lao động, đề án Phát triển dịch vụ, đề án phân bổ dân cư, ưu tiên thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để tham gia phát triển kinh tế, các chương trình cho vay giải quyết việc làm, chương trình giảm nghèo và chương trình xây dựng nông thôn.
75. Chuẩn hộ nghèo thành phố giai đoạn 2019-2020: khu vực thành thị 1.500.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 1.300.000 đồng/người/tháng.
76. Đến năm 2020, hoàn thành và đưa vào sử dụng 208 khối nhà với 12.740 căn hộ. Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Khu ký túc xá tập trung phía Đông và phía Tây (phường Hòa Khánh Nam) với 1.146 phòng, đáp ứng nhu cầu cho khoảng 6.876 sinh viên. Về chung cư: 2 block (7 tầng) và 3 block (9 tầng) chung cư thu nhập thấp tại khu tái định cư Phước Lý, 142 căn hộ dự án Chung cư nhà ở xã hội KCN Hòa Khánh. Giải quyết bố trí thuê chung cư cho 1.592 hộ.
77. Các phiên giao dịch việc làm được tổ chức định kỳ hằng tuần và tổ chức ít nhất 2 phiên giao dịch việc làm lưu động/năm. Trong 5 năm, thành phố tổ chức 162 phiên giao dịch việc làm. Ngân hàng chính sách xã hội thành phố thẩm định và giải ngân cho vay 1.436.311 triệu đồng với 38.803 dự án, thu hút 39.001 lao động; các đơn vị có chức năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã đưa 1.095 người đi xuất khẩu lao động.
78. Từ năm 2015 đến 2020 giải quyết việc làm cho 125.913 lao động, đạt bình quân 31.000 lao động/năm.
79. Có 4.603/4.603 thanh niên nhập ngũ. Trong đó, đảng viên 89 đồng chí (1,93%, vượt 0,93%); trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học là 957 đồng chí (20,8%); cán bộ, công nhân viên là 190 đồng chí (4,12%).
80. Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dự bị động viên: 10,62%; dân quân tự vệ: 25,18%; xây dựng đại đội đủ quân, có chi ủy: 100%.
81. Cử 10 cán bộ đối tượng 1, 300 cán bộ đối tượng 2 tham gia bồi dưỡng ở Trung ương và Quân khu 5; mở 13 lớp đối tượng 3 với 1.739 cán bộ, công chức, 12 lớp cho cán bộ đối tượng 3 và 4 thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố và Bộ đội Biên phòng thành phố; chỉ đạo các địa phương mở 1.341 lớp với 14.596 cán bộ đối tượng 4.
82. Năm 2015: 156 vụ, 95 người chết, 122 người bị thương. Năm 2016: 137 vụ, 89 người chết, 99 người bị thương. Năm 2017: 112 vụ, 70 người chết, 76 người bị thương. Năm 2018: 96 vụ, 60 người chết, 65 người bị thương. Năm 2019: 79 vụ, 52 người chết, 38 người bị thương.
83. Toàn ngành Công an thành phố có 177 điều tra viên, 16 giám định viên tư pháp, 416 cán bộ làm công tác thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp.
84. Các Trung tâm đã thụ lý 2.013 vụ việc; hòa giải, đối thoại xong 1.787 vụ việc.
85. Tập trung thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
86. Ban Tuyên giáo Thành ủy tuyên truyền qua các bản thông tin nội bộ hằng tháng; Báo Đà Nẵng mở chuyên mục Đưa Nghị quyết vào cuộc sống; Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng mở chuyên mục Nghị quyết và đời sống.
87. Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quy định số 13063-QĐ/TU ngày 7-5-2019 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
88. Quy định số 01-QĐi/TU ngày 14-5-2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý; Quy định số 02-QĐi/TU ngày 14-5-2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý; Quy định số 04-QĐi/TU ngày 20-8-2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số 05-QĐi/TU ngày 20-8-2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về bộ tiêu chí và quy chế đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý; Quy định số 07-QĐi/TU ngày
20-12-2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Thành ủy.
89. Cán bộ nữ quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2015-2020: 12/58 (20,69%); nhiệm kỳ 2020-2025: 23/102 (22,55%); nhiệm kỳ 2015-2020: 54/425 đồng chí nữ (12,7%). Cán bộ nữ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý được đề bạt, bổ nhiệm: Đến năm 2015 có 55/400 đồng chí (13,75%); đến năm 2020 có 55/303 đồng chí (18,1%).
90. Quy định số 262-QĐ/TW ngày 8-10-2014 của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy, cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chỉnh trị - xã hội; Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28-11-2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữa chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
91. Với 14 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh diện Trung ương quản lý, trong đó có 2 cán bộ cấp chiến lược.
92. Đến nay, có 6/7 bí thư quận, huyện ủy và 4/7 chủ tịch UBND quận, huyện không phải là người địa phương.
93. Thành lập Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ để tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
94. Công tác cán bộ, quản lý quy hoạch, trật tự môi trường, đô thị; việc kê khai tài sản, thu nhập; về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên...
95. Kiểm tra chuyên đề đối với 2.364 lượt tổ chức đảng và 8.700 lượt đảng viên; giám sát chuyên đề đối với 828 lượt tổ chức đảng và 2.078 lượt đảng viên. Cấp ủy các cấp và chi bộ xử lý kỷ luật 3 tổ chức đảng và 478 đảng viên.
96. Chỉ thị số 37-CT/TU ngày 20-8-2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố; Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 18-1-2017 của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn đánh bạc trên địa bàn thành phố; Kế hoạch số 105-KH/TU ngày 19-11-2019 của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo thành phố Đà Nẵng là điểm đến tin cậy, an toàn của bạn bè trong và ngoài nước.
97. Các vụ án Phạm Công Danh, Bùi Thị Hòa, các vụ việc liên quan Khu tái định cư và Tuyến kênh thoát lũ Hòa Liên, Nghĩa trang Hòa Sơn, xây dựng trái phép tại Dự án Ga đường sắt (quận Liên Chiểu)...
98. Phát hiện sai phạm, kiến nghị thu hồi với số tiền hơn 103,395 tỷ đồng, 3.119m2 đất.
99. Giảm các tổ chức bên trong, gồm 62 phòng chuyên môn thuộc các cơ quan đảng và các sở, ban, ngành và 8 chi cục trực thuộc các sở, ban, ngành; giảm 284 chức vụ lãnh đạo các cấp. Thực hiện mô hình Văn phòng phục vụ chung các cơ quan tham mưu, giúp việc Thành ủy; sắp xếp lại các phòng trực thuộc. Tổ chức lại Đảng bộ Các khu công nghiệp Đà Nẵng thành Đảng bộ Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng. Thực hiện thí điểm 4/7 trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp quận, huyện và sáp nhập 7/7 trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện vào ban tuyên giáo quận ủy, huyện ủy (giảm 7 đơn vị sự nghiệp cấp quận - huyện). Thực hiện 2/7 chức danh bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch HĐND cấp quận, huyện. Hợp nhất 5.832 thôn, tổ dân phố chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định thành 2.897 thôn, tổ dân phố (giảm 2.995 thôn, tổ dân phố, giảm 49,67%) và giảm 7.637 người hoạt động không chuyên trách ở thôn và tổ dân phố và giải thể 56/56 chi bộ cơ quan phường - xã.
100. Tính đến hết tháng 2-2020, 4 giảm gồm: (1) Giảm đầu mối: Sắp xếp 59 đơn vị, giảm 32 đơn vị sự nghiệp công lập; giảm 91 đơn vị cấp phòng; (2) Giảm lãnh đạo, quản lý, 103 vị trí; (3) Giảm biên chế (thu hồi 73 chỉ tiêu số lượng người làm việc; giải quyết cho 36 trường hợp nghỉ hưu trước tuổi, thôi việc ngay; chấm dứt hợp đồng lao động đối với 21 người); (4) Giảm kinh phí từ ngân sách.
101. UBND thành phố hoàn thành sắp xếp 59 đơn vị sự nghiệp công lập (Đề án dự kiến 49 đơn vị).
102. Hệ thống điều khiển và giám sát giao thông qua camera thông minh; hệ thống giám sát an ninh; hệ thống quan trắc môi trường nước uống và nước thải; các ứng dụng thông minh trong lĩnh vực y tế, giáo dục, đặc biệt là hồ sơ sức khỏe công dân, bệnh án điện tử, học bạ điện tử... Ngày 28/8/2019, Tổ chức Công nghiệp điện toán Châu Á - Châu Đại Dương (ASOCIO) trao Giải thưởng ASOCIO Smart city Award năm 2019 cho thành phố Đà Nẵng, ghi nhận những thành tích, cố gắng liên tục và có định hướng rõ ràng của thành phố Đà Nẵng trong việc xây dựng thành phố thông minh.
103. Thành phố Đà Nẵng luôn thuộc nhóm “Rất tốt” về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (dẫn đầu từ năm 2013-2016); 5 năm liên tiếp (2012-2016) dẫn đầu Chỉ số cải cách hành chính; 11 năm liên tiếp (2009-2019) đứng nhất nhóm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về Chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (ICT Index); đứng Nhất nhóm các tỉnh, thành về triển khai chính quyền điện tử, nhận giải năm 2018.
104. Tổng số biên chế cán bộ, công chức, viên chức và người lao động cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập đến ngày 30-10-2019 là 22.125 người. Qua gần 5 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW đã giảm 3.035 người.
105. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam thành phố đã tham gia góp ý 703 văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật của thành phố, Trung ương; tiếp nhận 1.195 đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, đã phân loại, xử lý, trả lời và chuyển cho các cơ quan thẩm quyền giải quyết 755 đơn. Mặt trận các cấp đã tập trung thực hiện tốt công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; đảm bảo đúng quy trình hiệp thương giới thiệu và vận động hơn 99,8% cử tri đi bầu.
106. Tập trung vào các nội dung giám sát: cán bộ, công chức, đảng viên tại khu dân cư; việc cấp thẻ bảo hiểm y tế; tình hình di dời giải tỏa, bố trí tái định cư; công tác bầu cử; hoạt động đại biểu dân cử; các quy định về giảm nghèo bền vững; vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống tham nhũng - lãng phí; việc tinh giảm biên chế; việc thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012; việc thực hiện các quy định về tiếp công dân, giải quyết đơn thư của UBND các cấp.
107. Hội Cựu Chiến binh thành phố chủ trì 23 cuộc; Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố tổ chức giám sát 12 nội dung; các cấp hội nông dân đã tổ chức giám sát 57 cuộc.
108. Có 71 hoạt động phản biện xã hội bằng hội nghị, bằng văn bản và bằng đối thoại trực tiếp.
109. Tỷ trọng GRDP chỉ chiếm 1,4% so với cả nước.
110. Các dự án FDI chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng phần lớn là lắp ráp, gia công.
111. Khu đô thị Đại học Đà Nẵng, di dời Ga đường sắt, xây dựng Cảng Liên Chiểu...
112. Thành phố có lực lượng lao động dồi dào với số người trong độ tuổi lao động chiếm 70% dân số và 51% lao động có tay nghề; nhưng thành phố vẫn thiếu những lao động lành nghề, kể cả công nhân kỹ thuật, nhân sự quản lý điều hành, chuyên gia cấp cao.
113. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 15-16%; tổng vốn đầu tư phát triển tăng bình quân 9-10%/năm.
114. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX); ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
115. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP); kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; tổng vốn đầu tư phát triển.
116. Trích Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị.
117. Chương trình chuyên đề triển khai Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị.
118. Du lịch nghỉ dưỡng, du lịch du thuyền, du lịch MICE, du lịch y tế, du lịch golf và giải trí có thưởng dành cho người nước ngoài, phát triển điểm đến đẳng cấp quốc tế, có bản sắc, khác biệt. Nghiên cứu đề xuất mô hình Trung tâm du thuyền quốc tế Việt Nam tại Đà Nẵng, Trung tâm đào tạo cứu hộ biển quốc tế Việt Nam tại Đà Nẵng. Phát triển tuyến, điểm du lịch trên vịnh, trên sông; khuyến khích phát triển các dịch vụ vui chơi thể thao giải trí biển.
119. (1) Thị trường quốc tế: tăng cường khai thác và mở rộng các thị trường gồm Nga, Ấn Độ, Úc, Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Đông...; tiếp tục khai thác thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á. (2) Thị trường nội địa: Tiếp tục đẩy mạnh thị trường khách du lịch nghỉ dưỡng, du lịch cuối tuần, du lịch trải nghiệm, du lịch gắn với mục đích chăm sóc sức khỏe, giáo dục. Tập trung khai thác các thị trường lớn truyền thống: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, thị trường tiềm năng: Hải Phòng, Quảng Ninh, các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
120. Chương trình số 41-CTr/TU ngày 05/02/2020 của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Chuyên đề Tập trung phát triển dịch vụ logistics, cảng biển, đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế biển lớn của cả nước.
121. Hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng phân khu nghiên cứu - phát triển, ươm tạo và đào tạo, Khu trung tâm hành chính; đồng bộ hạ tầng giao thông trong Khu công nghệ cao, tăng cường kết nối hạ tầng giao thông giữa Khu công nghệ cao đến trung tâm thành phố và các khu vực lân cận, đặc biệt là Khu đô thị Đại học Đà Nẵng.
122. Quy mô trên 100 triệu USD, suất đầu tư bình quân đạt tối thiểu 15 triệu USD/1ha.
123. Đầu tư xây dựng bến cảng Liên Chiểu; di dời ga đường sắt và tái phát triển đô thị; khu đô thị Đại học Đà Nẵng; đầu tư các bãi đỗ xe trên địa bàn thành phố; trung tâm thương mại Chợ Cồn; khu công viên phầm mềm số 2; xây dựng hạ tầng khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao giai đoạn 1; công viên Văn hóa lịch sử Ngũ Hành Sơn; quảng trường trung tâm thành phố; nâng cấp, cải tạo Bệnh viện Phụ sản - Nhi; mở rộng Bệnh viện Phụ sản - Nhi; Bệnh viện đa khoa Đà Nẵng cơ sở 2 - Hòa Quý; đền bù, giải tỏa thuộc cụm công nghiệp Hòa Nhơn; tuyến đường vành đai phía Tây; nâng công suất cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng; đường và cầu qua sông Cổ Cò; tuyến cao tốc La Sơn - Túy Loan; tuyến đường sắt tốc độ cao qua vùng, đường sắt nhánh nối đến cảng Liên Chiểu, Chân Mây, Quy Nhơn, Trung tâm logistics tại Đà Nẵng; nâng cấp, mở rộng quốc lộ 14B, 14G, 14D ; một số nút giao thông khác mức (nút Túy Loan, Liên Chiểu, Hòa Hiệp...); từng bước cải tạo, nâng cấp mở rộng và chuyển đổi cảng Tiên Sa thành cảng du lịch quy mô lớn lớn (sau khi hoàn thành cảng Liên Chiểu); nghiên cứu cải tạo cảng Sông Hàn trở thành cảng đón tàu biển du lịch; triển khai đầu tư hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp các nút giao thông trọng điểm thành các nút giao thông khác mức như: phía tây cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý; phía đông cầu sông Hàn; phía đông cầu Nguyễn Tri Phương; đầu tư tuyến kết nối giao thông sân bay về phía Tây; đường hầm qua sân bay Đà Nẵng và công trình vượt sông Hàn...
124. Theo tiêu chí trong phạm vi 500 mét, người dân có thể tiếp cận sử dụng xe buýt, đạt tỷ lệ khoảng 40-70% tại khu vực trung tâm thành phố, trong đó dự kiến đến năm 2025 và 2030 lần lượt là 26 và 36 tuyến xe buýt.
125. Tàu điện ngầm; tuyến UMRT; xây dựng và hoàn thành dự án Giao thông phi cơ giới và ứng dụng hệ thống giao thông thông minh (ITS).
126. Hệ thống thu gom nước thải riêng (lưu vực Mỹ Khê, Mỹ An); tuyến ống nước thải dọc kênh Đa Cô từ hồ Hòa Phú ra kênh Hòa Minh; tuyến ống thu gom nước thải dọc kênh Đa Cô từ hồ đường Hoàng Văn Thái đến hồ Hòa Phú; tuyến ống thu gom nước thải dọc đường 2 tháng 9; trạm xử lý nước thải Liên Chiểu; nâng cấp, cải tạo một số hạng mục tại bãi rác Khánh Sơn gắn với đề án phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường các khu vực dân cư xung quanh bãi rác Khánh Sơn; tuyến ống thu gom nước thải dọc đường Trần Hưng Đạo nối dài; xây dựng hệ thống thu gom nước thải riêng cho lưu vực từ sân bay Nước Mặn đến đường Phạm Hữu Nhật; dự án xử lý nước rỉ rác giai đoạn 2; dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu liên hợp xử lý chất thải rắn; dự án đầu tư các trạm trung chuyển rác trong đô thị; dự án mua sắm trang thiết bị phục vụ thực hiện phân loại rác tại hộ gia đình; dự án đầu tư các trạm quan trắc môi trường tự động trên địa bàn thành phố.
127. Chương trình số 45-CTr/TU ngày 25-2-2020 của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Chuyên đề xây dựng và triển khai chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố, tập trung vào các mũi nhọn của thành phố.
128. Quyết định số 519/QĐ-TTg ngày 16-4-2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn.
129. Cập nhật tình hình và xu thế mới của thế giới và áp dụng linh hoạt, có chọn lọc phù hợp với thực tế thành phố; vận động nguồn lực xã hội hóa trong công tác tổ chức các hoạt động văn hóa - nghệ thuật phục vụ nhân dân; tham mưu cải tiến các quy trình, thủ tục lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.
130. Theo Kết luận số 57-KL/TW ngày 16-9-2019 của Bộ Chính trị về kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng - an ninh.
131. Theo Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5-9-2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia.
132. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp thành phố: Từ 20-25% dưới 40 tuổi, từ 35-40% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đối với cán bộ là lãnh đạo, quản lý cấp phòng, chi cục, trung tâm và tương đương của các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành phố: Từ 20-25% dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện (cán bộ là lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện): Từ 20-25% dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các phòng, ban, đoàn thể và tương đương cấp huyện: Từ 25-30% dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác. Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
Bạn đọc cũng có thể xem Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI trình Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố, nhiệm kỳ 2020-2025 định dạng PDF TẠI ĐÂY
GỢI Ý MỘT SỐ NỘI DUNG GÓP Ý VÀO DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ Ngoài việc góp ý tất cả các nội dung đã nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI tại Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố; đề nghị tập trung vào một số nội dung chính sau đây: 1. Về chủ đề của Báo cáo chính trị: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; tăng cường sức mạnh đồng thuận; phát huy các động lực tăng trưởng; xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại”. 2. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố, nhiệm kỳ 2015-2020 Đề nghị cho ý kiến về: - Bối cảnh tình hình trong Phần thứ nhất của dự thảo Báo cáo. - Những thành tựu đạt được; hạn chế và nguyên nhân; đánh giá chung và những bài học kinh nghiệm rút ra sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố; những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong nhiệm kỳ ảnh hưởng đến tư tưởng, tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố. - Kết quả và sự đồng thuận của nhân dân đối với những chủ trương lớn của thành phố trên các lĩnh vực. 3. Về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025 Đề nghị cho ý kiến về: - Dự báo tình hình, những thuận lợi, thách thức đối với thành phố Đà Nẵng trong nhiệm kỳ đến. - Về mục tiêu tổng quát đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030: “Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, chính quyền tiên phong trong đổi mới và phát triển, đưa thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị khởi nghiệp, sáng tạo, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước, là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên; quốc phòng - an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc, phấn đấu xây dựng thành phố Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại; hướng đến đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh và đáng sống”. - Về các chỉ tiêu chủ yếu nhiệm kỳ 2020-2025, nhất là các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế để phấn đấu thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. - Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về kinh tế - xã hội có tính đột phá và khả thi trên từng lĩnh vực, từng ngành, không đi vào những biện pháp quá cụ thể, chi tiết, nhất là: + 3 trụ cột và 5 lĩnh vực mũi nhọn phát triển giai đoạn 2020-2025. + Triển khai thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù để xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng theo Nghị quyết số 43-NQ/TW, Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức mô hình thí điểm chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng và quốc tế, tạo động lực tăng trưởng mới. + Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, có trọng điểm, phù hợp với Quy hoạch tổng thể thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. + Phát triển văn hóa - xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế, làm nền tảng cho thành phố phát triển bền vững, hướng đến xây dựng “thành phố đáng sống”. - Về nhiệm vụ, giải pháp quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và cải cách tư pháp. - Về nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng - chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền, trong đó chú ý đến thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị. - Về nhiệm vụ, giải pháp nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. |