Chính trị - Xã hội
Cần làm rõ cơ sở đề xuất biện pháp chỉ định cho vay đặc biệt
ĐNO - Chiều 10-6, thảo luận ở hội trường về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), đại biểu Trần Chí Cường, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố đề nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ cơ sở đề xuất biện pháp chỉ định cho vay đặc biệt, sự cần thiết của việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng cho vay đặc biệt, cũng như được chỉ định cho vay đặc biệt...
Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Quảng (ngoài cùng, hàng đầu) cùng các đại biểu Quốc hội đơn vị thành phố dự thảo luận ở hội trường. Ảnh: VŨ HƯNG |
Đại biểu Trần Chí Cường thống nhất với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng để hoàn thiện pháp luật, đáp ứng sự vận hành của xã hội, bảo đảm cho hoạt động của các tổ chức tín dụng phát triển an toàn, bền vững, tiếp tục phát huy vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế.
Để hoàn thiện dự án Luật, đại biểu Trần Chí Cường góp ý 4 nội dung quan trọng. Thứ nhất, về giới hạn cấp tín dụng, đại biểu cho rằng, để hạn chế tình trạng rủi ro từ tập trung tín dụng đã gây ra những hệ lụy không tốt đến thị trường tài chính trong nước thời gian qua, dự thảo Luật quy định về giới hạn cấp tín dụng theo hướng giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng so với luật hiện hành của một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan.
Theo đó, tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan tương ứng từ không được vượt quá 15% và 25% xuống còn 10% và 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; giảm từ 25% và 50% xuống còn 15% và 25% đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Bên cạnh việc thu hẹp khá lớn về “room tín dụng” được cấp cho khách hàng như vừa nêu trên; dự thảo Luật còn mở rộng định nghĩa phạm vi đối tượng về người có liên quan.
Điều này dẫn đến tổng dư nợ cấp tín dụng cho nhóm khách hàng sẽ thấp hơn trước rất nhiều; ngân hàng có thể cũng sẽ bị thu hẹp lượng khách hàng và khách hàng sẽ bị thu hẹp về nguồn vốn được tiếp cận. Như vậy có thể gây tác động bất lợi kép cho cả khách hàng và ngân hàng.
Vấn đề này có thể ảnh hưởng lớn và tức thời, đó là nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế bị hạn chế hơn. Trong bối cảnh nhiều khó khăn như hiện nay, kinh tế giảm sút, lãi suất tăng cao, tín dụng tăng trưởng thấp, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế yếu.
Vì vậy, đại biểu cho rằng việc giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng cần có sự đánh giá thật kỹ các tác động hiện nay. Cần phân tích và đánh giá rõ hơn về thực trạng vay vốn và rủi ro trong thực tại để có giải pháp phù hợp, căn cơ nhất.
Quy định mới nhưng không làm tác động quá lớn đến dòng vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận; tạo điều kiện để bảo đảm dòng vốn thông suốt, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và không làm mất khả năng cạnh tranh, môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Đại biểu Trần Chí Cường phát biểu thảo luận tại hội trường. Ảnh: VŨ HƯNG |
Thứ hai, về tỷ lệ sở hữu cổ phần, nhằm mục tiêu hạn chế vấn đề về thao túng hoạt động ngân hàng, hạn chế tình trạng sở hữu chéo, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng…
So với luật hiện hành, dự thảo Luật có điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là cá nhân, cổ đông là tổ chức, cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó tương ứng từ không được vượt quá 5%, 15%, 20% xuống còn 3%, 10% và 15%.
Tuy nhiên, trong trường hợp này thì thực tế có thể có phát sinh việc thuê, nhờ người khác đứng tên sở hữu cổ phần để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần nhằm chi phối, kiểm soát tại một tổ chức tín dụng.
Vấn đề này sẽ được giải quyết ra sao trong thực tiễn, có giải quyết được tính căn cơ khi giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần có đánh giá, làm rõ nguyên nhân sở hữu chéo xuất phát từ quy định của pháp luật hay do trong tổ chức thực thi.
Mặc khác, trong trường hợp như quy định này, cũng cần có sự đánh giá đối với các cổ đông đang hiện hữu có vốn cao hơn quy định mới sẽ được giải quyết như thế nào; có thực hiện thoái vốn hoặc quy định không áp dụng hồi tố để bảo đảm lợi ích nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, có tâm huyết.
Thứ ba, về khoản vay đặc biệt (Điều 146), đại biểu cho rằng dự thảo Luật lần này mở rộng thêm một số khái niệm như cho vay không có tài sản bảo đảm, chỉ định cho vay đặc biệt; ấn định lãi suất cho vay đặc biệt là 0%/năm và cơ chế hỗ trợ cho tổ chức tín dụng cho vay đặc biệt.
Đại biểu đề nghị cần làm rõ cơ sở đề xuất biện pháp chỉ định cho vay đặc biệt, sự cần thiết của việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng cho vay đặc biệt, cũng như được chỉ định cho vay đặc biệt; đánh giá tác động của việc cho vay đặc biệt đối với chính các tổ chức tín dụng được chỉ định này.
Ngoài ra, chủ thể cho vay đặc biệt được bổ sung thêm so với luật hiện hành gồm Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, tổ chức tín dụng.
Đồng thời, quy định thêm là trong trường hợp số tiền cho vay đặc biệt không thu hồi được, hạch toán giảm Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân để xử lý; Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam có nguồn thu từ đóng phí, đóng quỹ của hội viên.
Đại biểu đề nghị cần đánh giá thêm về vấn đề này để việc huy động nguồn vốn không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các hội viên cũng như ảnh hưởng đến khả năng xử lý các vấn đề phát sinh của các quỹ.
Bên cạnh đó, cũng cần xem lại chức năng nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hay các Quỹ tín dụng có cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ này hay không chỉ thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ của mình, nhất là chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm trong trường hợp rủi ro ngân hàng phá sản.
N.PHÚ - VŨ HƯNG