Kinh tế
Lý do Bộ Giao thông vận tải chưa bỏ trần giá vé máy bay
Bộ Giao thông vận tải cho biết vừa có văn bản trả lời các kiến nghị của Hiệp hội doanh nghiệp hàng không Việt Nam (VABA) về kiến nghị bỏ trần giá vé máy bay.
Hành khách làm thủ tục lên chuyến bay tại sảnh E sân bay Nội Bài. Ảnh tư liệu: Huy Hùng/TTXVN |
Văn bản do Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Anh Tuấn ký nêu rõ: Trong quá trình tham gia góp ý dự thảo Luật Giá (sửa đổi), Bộ Giao thông vận tải có các văn bản gửi Bộ Tài chính về giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.
Theo đó, Bộ Giao thông vận tải đề nghị giữ nguyên như dự thảo Luật Giá: “Dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa: Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa, hãng hàng không quyết định giá cụ thể”.
Dịch vụ vận chuyển hàng không là một trong những dịch vụ có tác động với phạm vi rất lớn đến đời sống người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc không quy định giá trần có nghĩa với việc Nhà nước bỏ công cụ điều tiết và để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ toàn quyền quyết định giá cung cấp dịch vụ.
Khi sửa theo hướng không còn quy định giá trần thì các hãng hàng không hoàn toàn có thể đưa ra giá vé ở mức cao, nhất là một số tuyến có cạnh tranh hạn chế hoặc trong các giai đoạn cao điểm, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.
Hơn nữa, dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa vẫn đang là một trong các dịch vụ thuộc loại có thị trường cạnh tranh hạn chế và vẫn đang thuộc tiêu chí do Nhà nước định giá theo quy định tại Điều 21 dự thảo Luật Giá.
Hiện chỉ có 5 hãng hàng không tham gia thị trường, thị phần vận chuyển hàng không nội địa cũng vẫn có các doanh nghiệp chiếm thị phần trên 30%.
Về lâu dài, Bộ Giao thông vận tải cho rằng, khi khả năng cung ứng của vận tải hàng không đáp ứng tốt hơn yêu cầu xã hội; thị trường hàng không có sự tham gia đa dạng của nhiều hãng hàng không Việt Nam, thúc đẩy cạnh tranh thực chất bằng giá vé, chất lượng dịch vụ, hành khách được quyền lựa chọn theo nhu cầu, khả năng thì khi đó đề xuất bỏ quy định khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa là phù hợp.
Theo đó, nhà nước sẽ thực hiện quản lý giá dịch vụ hàng không nội địa theo cơ chế do thị trường tự điều tiết và kiểm soát giá bán của các hãng hàng không theo quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, việc dỡ bỏ dần quy định về giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa cần có lộ trình và trong giai đoạn trước mắt, để tôn trọng và bảo đảm quyền định giá của doanh nghiệp, trong dự thảo Luật Giá đã kịp thời hoàn chỉnh theo hướng chuyển từ quy định khung giá sang quy định giá tối đa. Điều này nhằm tạo cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để giảm giá dịch vụ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Đặc biệt, ngày 19-6-2023, Quốc hội cũng đã biểu quyết thông qua Luật Giá, với 92,91% đại biểu tham gia biểu quyết tán thành; trong đó, Quốc hội thông qua quy định giá trần đối với dịch vụ vận chuyển hành khách bằng đường hàng không nội địa.
Bộ Giao thông vận tải cho hay, Bộ đang lấy ý kiến sửa đổi một số điều của Thông tư số 17/2019/TT-BGTVT về khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa. Theo Dự thảo thông tư mới, với đường bay dưới 500 km, giá dịch vụ vận chuyển được giữ nguyên theo Thông tư 17/2019/TT-BGTVT.
Cụ thể, nhóm đường bay phát triển kinh tế xã hội vẫn có mức giá tối đa là 1,6 triệu đồng/vé một chiều. Nhóm đường bay khác dưới 500 km có mức giá tối đa là 1,7 triệu đồng/vé một chiều.
Với các đường bay từ 500 km đến dưới 850 km, mức giá tối đa đề xuất là 2,25 triệu đồng/vé một chiều. Trong khi theo quy định hiện hành, con số này là 2,2 triệu đồng/vé. Đường bay từ 850 km đến dưới 1.000 km, mức giá tối đa đề xuất là 2,89 triệu đồng/vé, cao hơn 100 nghìn đồng so với quy định hiện hành.
Ở khoảng cách đường bay từ 1.000 km đến dưới 1.280 km, Dự thảo mới đề xuất mức giá tối đa là 3,4 triệu đồng, cao hơn 200 nghìn đồng so với quy định hiện hành.
Cuối cùng, mức giá 4 triệu đồng được đề xuất cho khoảng cách đường bay từ 1.280 km trở lên. Con số này cao hơn quy định hiện hành 250 nghìn đồng.
Mức tối đa giá dịch vụ đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho 1 vé máy bay, trừ thuế giá trị gia tăng và các khoản thu hộ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nhà ga hành khách cũng như dịch vụ bảo đảm an ninh như giá phục vụ hành khách, giá bảo đảm an ninh, hành lý.
Mức tối đa giá dịch vụ cũng chưa tính khoản giá dịch vụ với các hạng mục tăng thêm. Đây là khoản giá do các hãng hàng không quyết định trên cơ sở cân đối khả năng cung cấp dịch vụ của hãng hàng không và nhu cầu của thị trường.
Các hãng hàng không quy định giá vé cụ thể trên đường bay hoặc nhóm đường bay theo phương thức đa dạng giá vé cho mỗi đường bay và chính sách giá giảm thường xuyên dành cho đồng bào, chiến sỹ thường trú tại các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Theo TTXVN