.

Thu Bồn hóa đá phía bên kia

.

Nhà thơ Thu Bồn đã mãi mãi ra đi tròn 10 năm (vào ngày 17-6-2003), nhưng cuộc đời phong phú, sôi động và sự nghiệp thi ca đồ sộ của ông vẫn còn mãi với thời gian.

Một nhà văn đã nói, anh vẫn có cảm tưởng Thu Bồn đang thực hiện chuyến đi thực tế dài ngày đâu đó trên đất nước. Anh là người gắn bó với nhà thơ Thu Bồn suốt mấy chục năm, là người chăm lo vật chất, tinh thần, động viên, cổ vũ Thu Bồn viết. Trong một bài viết lúc lâm bệnh nặng, Thu Bồn đã cho biết điều đó. Với nhà văn này, Thu Bồn không bao giờ chết, bởi con người Thu Bồn có sức sống mãnh liệt, cuộc đời của Thu Bồn là chắp nối những chuyến đi, tác phẩm cũng được ra đời từ những chuyến đi thực tế ấy. Lúc còn sống, Thu Bồn không bao giờ làm công tác quản lý, ông tự do đi và viết, chứ ít khi chịu ở một chỗ lâu. Ông là người dễ yêu nhưng chóng chán, ghét những gì quá quen thuộc. Thu Bồn như một con đại bàng cô độc của những cánh rừng nguyên thủy.

Nhà thơ Thu Bồn.                                                               (Ảnh tư liệu)
Nhà thơ Thu Bồn. (Ảnh tư liệu)

Sức sống mãnh liệt của Thu Bồn thể hiện ngay ở cách làm việc. Ông là nhà thơ có tố chất làm việc của một cây bút phóng sự, hễ có sự kiện mới là có thể viết được ngay, một ngày một bài thơ, một đêm một chương trường ca, đến như tiểu thuyết là thể loại cần sự chiêm nghiệm của thời gian sau khi thâm nhập thực tế, vậy mà đi chiến dịch Quảng Trị 1972 trở về, ông viết hẳn bộ tiểu thuyết Những đám mây màu cánh vạc (2 tập), phác thảo trường ca Con chim vàng chốt lửa, và cũng thời gian ấy ông viết trường ca Người gồng gánh phương đông. Năm 1972 là năm ông viết sung sức nhất, cho ra đời nhiều tác phẩm nhất.

Tôi gặp nhà thơ Thu Bồn vào khoảng sau Tết Nguyên đán 1978, khi Pol Pot gây hấn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam được hơn một năm, chiến tranh đang vào giai đoạn quyết liệt, địch tăng cường đánh chọc sườn phía Tây Nam, nhiều làng xóm bị đốt phá, dân lành bị tàn sát. Giữa lúc ấy, nhà văn Nguyễn Chí Trung dẫn đoàn văn nghệ sĩ từ Quân khu 5 đến chiến trường. Tôi còn nhớ đoàn có các nhà văn, nhà thơ Thu Bồn, Nguyễn Bảo, Ngân Vịnh, Thanh Quế và hai họa sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh. Đến nơi, trong khi nhiều người đang nghỉ ngơi sau chặng đường mấy trăm cây số, Thu Bồn đã lên đường biên, ông đến chiến hào quan sát trận địa, trò chuyện với chiến sĩ, rồi đến trại tị nạn gặp nhân dân Campuchia mới từ bên kia chạy sang. Thời gian này, đất nước Chùa Tháp đang chìm trong nạn khủng bố, diệt chủng, nhân dân chạy sang Việt Nam lánh nạn rất đông. Thu Bồn đến trại tị nạn Bến Sắn gặp các nhân chứng. Ông cứ lang thang từ căn lều này đến lán khác trò chuyện với mọi người, gần gũi, thông cảm, chia sẻ nỗi đau của họ. Tối về hậu cứ của binh đoàn Cửu Long, Thu Bồn ngồi võng, bên chiếc bàn tre với ngọn đèn dầu và viết. Đâu chừng nửa tháng sau, trường ca Campuchia hy vọng ra đời. Chính lúc đất nước Campuchia đang ở thời kỳ đen tối nhất của lịch sử, hàng triệu người dân bị đọa đày trong cái gọi là công xã giữa rừng sâu, trên những cánh đồng khô hạn hay giữa đầm lầy, xác người bị giết bằng phương tiện thô sơ ngổn ngang khắp nơi, thì Thu Bồn vẫn nhận thấy niềm hy vọng của đất nước này ở tương lai. Rằng dù cái ác tàn bạo đến đâu cũng không thể hủy diệt được một dân tộc. Rằng cái ác, sự tàn bạo sẽ đẩy người dân lương thiện đến sự phản kháng để tìm lối thoát, và đó chính là hy vọng.

Anh nói về đất nước Campuchia hy vọng
Nhân dân là sức mạnh thánh thần
Tay nắm tay dưới ngọn cờ giải phóng
Tin vào sức mình đã dựng nổi những Angkor
Và:
… Chúng tôi sẽ tiến về Phnom Penh
Như nước lũ tràn
Cả mùa mưa loài người đang chịu đựng
Đền chùa hãy gióng lên tiếng trống…

Lời tiên đoán bằng thơ ấy của Thu Bồn được viết trước tháng 10-1978, và đã được minh chứng, chỉ một thời gian ngắn, trên đất nước Chùa Tháp nổ ra hàng loạt cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân, Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập. Hơn một năm sau, được sự giúp đỡ vô tư, trong sáng của quân tình nguyện Việt Nam, quân và dân Campuchia đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ, đưa đất nước của nền văn minh Angkor thoát khỏi họa diệt chủng.

Sau này, một số người viết lý luận và một vài nhà văn tự cho mình có tư tưởng “cấp tiến” cho rằng, văn phải có thiên chức dự báo, điều mà văn học cách mạng kháng chiến không hề có. Chỉ tiếc rằng, họ chưa đọc trường ca Campuchia hy vọng của Thu Bồn, cũng như nhiều tác phẩm văn học cách mạng khác.

Khi quân tình nguyện chúng ta làm nhiệm vụ trên đất nước Campuchia, Thu Bồn còn có nhiều đợt sang đấy công tác. Ông đến với các đơn vị đứng chân dọc dãy Đăng Rếch, Ô Ran và viết trường ca Ô Ran 76 ngọn. Trường ca này như được Thu Bồn viết rất nhanh, như sự nối tiếp của Campuchia hy vọng, và được xuất bản năm 1989, trước khi quân tình nguyện hoàn thành nhiệm vụ trở về nước. Cặp trường ca Campuchia hy vọngÔ Ran 76 ngọn là hai tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp sáng tác văn học của Thu Bồn.

Là người sáng tác, tôi thường tìm hiểu cách làm việc của các nhà văn. Mỗi nhà văn đều có phương pháp làm việc riêng, rất thú vị. Nhìn bề ngoài, Thu Bồn là người mang tính cách lãng tử, ông ham vui, thích hội hè, đọc thơ, ca hát. Hễ gặp người quen là ông tạo ra cuộc nhậu, sẵn sàng bán đồ đạc quý nhất để đãi mọi người. Nhưng thực ra đấy là người lao động nhà văn hết sức nghiêm túc. Đêm nào ông cũng ngồi viết, có khi viết đến sáng.

Thu Bồn rất ít khi quan tâm đến câu chữ, bố cục tác phẩm. Với Thu Bồn, câu thơ dài - ngắn tùy theo cảm xúc của người viết, tác phẩm được hình thành qua cảm hứng. Và cũng từ cảm xúc đẻ ra bố cục, hễ gặp đề tài là ông viết. Có thể một số bài thơ ngắn, trường ca của Thu Bồn chưa thật hay, đấy cũng là lẽ thường tình, chẳng có ai viết tác phẩm nào cũng đều hay, nhưng trong số những tác phẩm thường thường bậc trung đó vẫn có những tứ thơ độc đáo, những câu chữ xuất thần. Thu Bồn như một người sơn tràng được giao vào rừng đốn gỗ về dựng nhà, vào đến rừng, ông đốn hết những cây to khuân về ném thành đống ngổn ngang cho thợ mộc lựa ra gỗ tốt trong ấy mà dựng nhà, dựng cửa. Ở tiểu thuyết cũng vậy, bên cạnh những chương hay, có một số chương đoạn độn nhiều tư liệu, nhưng giọng văn bao giờ cũng nhiệt tình, cách diễn tả, đối thoại của nhân vật rất riêng biệt, nhiều câu văn lóe sáng, neo người đọc lại. Có thể nói, một số trường ca, tiểu thuyết, đến cả truyện ngắn của Thu Bồn lỏng lẻo bố cục nhưng hấp dẫn người đọc nhờ giọng văn cuốn, câu thơ có sức lay động lòng người với những sự kiện, chi tiết đặc sắc, tạo nên khung cảnh bi tráng, nhân vật có những tính cách phi thường, gây bất ngờ cho người đọc.

Thu Bồn là nhà văn tác chiến trên nhiều thể loại, nhưng nhắc đến tên ông, người ta nghĩ ngay đến trường ca. Ông là nhà thơ đã viết 10 trường ca, đến nay chưa có nhà thơ nào ở nước ta vượt qua nổi. Và trường ca nào cũng gây được ấn tượng cho người đọc. Từ trường ca đầu tiên Bài ca chim chơ rao viết về Tây Nguyên, đến trường ca sau cùng Ô Ran 76 ngọn viết về đất nước Campuchia, Thu Bồn có cảm xúc xuyên suốt là ca ngợi con người, đất nước. Ông là người có sở trường viết về rừng núi. Ông ghét những gì quá bằng phẳng, cũ mòn. Ông thích thả mình theo cảm hứng với những con người có tính cách mạnh mẽ, những cánh rừng chưa ai đặt chân đến, những đỉnh núi chót vót trời mây. Trường ca của Thu Bồn mang âm hưởng sử thi Tây Nguyên. Ngay khi viết về đời thường như trường ca Hà Nội ngày nào, thực ra đây chỉ là bài thơ dài hơi, Thu Bồn cũng mang giọng điệu của sử thi với sự lớn giọng.

Trong trường ca và thơ của Thu Bồn thường có hình ảnh mặt trời: Mỗi ngày mặt trời lên mặt trời xuống/ Núi thêm một màu xanh một vầng ráng đỏ (Bài ca chim chơ rao). Quê hương tôi bé nhỏ đẹp xinh/ Có đêm đen ẩn dấu mặt trời vàng (Quê hương mặt trời vàng).

Thu Bồn rất mê cảnh rừng núi, hình như ông không chịu được cảnh náo nhiệt của đô thị. Thời gian sang công tác ở Campuchia, có lúc ở cả tháng, trong khi nhiều nhà văn, nhà thơ tìm tài liệu ở thủ đô Phnom Penh, Thu Bồn lên mạn rừng U Đôn, Pua Xát, Biển Hồ, ban ngày ông đến với các đơn vị tình nguyện, với nhân dân trong các phum sóc, ban đêm ông mắc võng ngủ trong vườn, dưới những vòm cây cổ thụ. Những năm cuối đời, dù được quân đội cấp nhà ở trung tâm thành phố, nhưng ông không ở mà chọn khu suối Lồ Ô để nương náu. Dạo đó, Lồ Ô còn là nơi cây cối trùm lên như rừng, lại có gò núi, suối khe, nên ông rất khoái.

Thu Bồn là tác giả có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Muốn hiểu về tác phẩm Thu Bồn phải có những công trình nghiên cứu. Ông là tác giả tiêu biểu cho nền văn học cách mạng và kháng chiến.

Cuộc đời nhà thơ Thu Bồn rất phong phú, sinh thời ông đã có những giai thoại, huyền thoại được truyền tụng. Ông trở về hóa đá phía bên kia. Thu Bồn đã đi xa nhưng thơ ông đã thành những tượng đài không phải bằng đá mà bằng ngôn ngữ mới lạ, bằng nhịp điệu cuồn cuộn như chính sự nồng nhiệt với tình yêu cuộc sống, với đất nước của tác giả. Thu Bồn đang tồn tại với bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

Thu Bồn có sức hút đối với nhiều người mọi từng lớp. Ông xuất hiện ở đâu là có nhiều người quây đến, sẵn sàng làm “đệ tử”. Tính Thu Bồn phóng khoáng, đã chơi là chơi hết mình, điều đó ảnh hưởng đến sáng tác, khi viết, ông viết một mạch. Nhờ vậy mà trường ca, tiểu thuyết của ông có hơi văn cuồn cuộn, câu chữ đôi lúc xô bồ một cách đáng yêu. Khi về sống ở suối Lồ Ô, sức khỏe nhà thơ Thu Bồn có dấu hiệu giảm sút, tuổi cũng đã cao, đối mặt với cuộc sống đời thường, ông nhận ra nhiều điều về cõi nhân sinh, rằng cuộc đời mỗi người đều có giới hạn về thời gian. Thơ Thu Bồn thời gian này chuyển sang giai đoạn mới, ông viết về đời thường, về mẹ, về vợ và bài thơ Em đi bán lịch tiêu biểu cho phong cách Thu Bồn giai đoạn này.

Tuổi cao, sức yếu vẫn không buộc chân được Thu Bồn, ông vẫn thực hiện những chuyến đi lên Tây Nguyên, ra các tỉnh phía Bắc, đến cố đô Huế, trong đó Tạm biệt Huế là bài thơ tình đặc sắc của thơ Việt Nam. Ở bài thơ này, Thu Bồn đã phác họa được cảnh sắc cố đô Nhịp cầu cong và con đường thẳng/ Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu/ Con sông dùng dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

NGUYỄN QUỐC TRUNG

;
.
.
.
.
.