Do được dùng nhiều chất kích thích, bảo quản nên hầu hết trái cây Trung Quốc có kích thước đều đặn, láng bóng và giữ được rất lâu trong môi trường tự nhiên. Chỉ cần tinh mắt một chút là bà nội trợ dễ dàng nhận ra đâu là rau quả Trung Quốc, đâu là hàng Việt Nam qua những đặc điểm sau:
|
Khoai tây Trung Quốc có vài loại, trong ảnh (phải) là giống khoai ruột trắng ăn nhạt, sượng. Khoai tây Đà Lạt (trái) vỏ mỏng, dễ bong tróc, mắt khoai nhỏ, ruột vàng, ăn bở. |
|
Ảnh trái là gừng Trung Quốc trơn, bóng, mọng nước, ruột vàng, ít xơ, lớp vỏ nhẵn nhụi, căng mọng, củ to, đều, ít nốt sần sùi, được vệ sinh rất sạch sẽ. Gừng Trung Quốc đẹp hơn gừng trong nước nhưng mùi thơm thì thua xa. Gừng ta (phải) tuy xấu mã, nhiều rễ và nốt sần sùi, bẻ đôi củ sẽ thấy có đường gân bên trong nhưng rất thơm. |
|
Theo những người bán hàng, hành tây Trung Quốc (trái) có vỏ xanh, còn hành tây Đà Lạt (phải) thường bóng, có hình dạng tròn đều hoặc bầu dục, có màu vàng, tím hoặc trắng. |
|
Cà rốt ta củ nhỏ, đậm màu, tươi mới, thường có cuống (phải), không như cà rốt Trung Quốc (trái) bóng loáng, đều củ, to, không có cuống hay đầu thường bị đen do để lâu. |
|
Mặc dù bí đỏ Việt Nam được trồng rất nhiều và có nhiều chủng loại từ quả tròn, hồ lô hay bầu dục song ở các chợ đầu mối vẫn có rất nhiều bí đỏ Trung Quốc và giá cả tương đương nhau. Để tránh nhầm lẫn hãy chọn những quả bí đỏ nhỏ, sần sùi là hàng ta (phải). Còn giống bí đỏ Trung Quốc thường có kích thước gấp đôi, gấp 3 bí ta, quả dài, bóng và đẹp hơn (trái). |
|
Bắp cải Trung Quốc thường được bọc trong túi lưới, dạng tròn, to bằng nắm tay, xanh nhạt, lá xoăn (trái). Còn bắp cải ta to, màu trắng (phải). |
|
Phân biệt cà chua có vẻ khó khăn, song nếu để ý bạn sẽ thấy cà chua Trung Quốc (trái) bao giờ quả cũng to, bóng đều, không cuống vì sử dụng chất bảo quản rất lâu. Cà chua ta thường có cuống, tươi hơn. Trong ảnh (phải) là cà chua Vĩnh Phúc quả nhọn, nhỏ hơn hẳn. |
|
Hành Trung Quốc (trái) củ to, chỉ có một tép, không thơm, vỏ mỏng. Hành ta (phải) thường cỏ vài tép trên một củ, rất thơm, lớp vỏ dày. |
|
Tỏi Trung Quốc (trái) thường nhiều tép, củ to, vỏ mỏng, rất dễ bóc, có vị hăng, the. Tỏi ta có nhiều loại song củ nhỏ, khó bóc, vị thơm rất đặc trưng. |
|
Lựu Việt Nam (ảnh trên) trái nhỏ, hột nhiều, dày, màu da xanh. Lựu TQ (ảnh dưới) to, tròn, vỏ mỏng, màu trắng hồng. |
|
Quýt Việt Nam (trái) vỏ mỏng, thường bị nám. Quýt Trung Quốc vỏ dày, bóng và khi bóc ra 2 đầu múi thường bị khô, chai. |
|
Cam Vinh (trái) trái tròn, nhỏ, có màu xanh vàng, vỏ thường bị nám. Cam Trung Quốc trái to, có màu vàng tươi, vỏ mỏng, trơn láng, không hạt; múi có mùi úng. |
|
Nho Trung Quốc to tròn, có lớp vỏ màu nhạt, ăn vị chua, mềm, bở và nhiều hạt. Nho Mỹ vỏ sậm hơn, thuôn dài, vị ngọt, giòn, rất ít hoặc không có hạt. Nho Phan Rang (Ninh Thuận) quả nhỏ, chùm ngắn, màu xanh tươi. |
|
Cải thảo Đà Lạt (trên), bắp tròn trịa. Còn cải thảo Trung Quốc (dưới) lá xanh đậm, thon dài. |
|
Súp lơ xanh của Đà Lạt (bên trái), còn lá và thân đầy đủ, vị ngọt đậm đà, giá 30.000 đồng một kg. Súp lơ Trung Quốc bị cắt mất thân và bọc trong bao xốp, rẻ hơn 5.000 đồng, chất lượng kém hơn so với hàng Đà Lạt, để cả tháng vẫn trắng tươi, không bị hỏng. |
|
Ếch Trung Quốc (trái) thường to, béo gấp rưỡi ếch ta, da có màu xanh, trong khi ếch ta thường nhỏ, gầy và da đen, xù xì. |
|
Cá tầm Trung Quốc (phải) béo và thân ngắn. Cá tầm Trung Quốc thân thon dài, da sáng và trơn hơn cá tầm Việt Nam |
GDVN