.
Nhà thơ TẾ HANH:

Sân ga thời thơ ấu

.

Từ thuở học trò, bắt đầu tập tễnh yêu thơ, khi cầm được trên tay tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, bài thơ Vu vơ (về sau đổi lại là Những ngày nghỉ học) của Tế Hanh là bài thơ tôi thích nhất, bởi nó gắn liền với những khát vọng, mơ mộng... của mình trong suốt buổi hoa niên. Chính vì vậy, có lần, khi nhà thơ Tế Hanh đến Đà Nẵng (theo lời mời của Nhà Xuất bản Đà Nẵng để làm chủ biên Hội đồng biên soạn và tuyển chọn tập thơ Miền Trung thế kỷ hai mươi, 1994), gặp được ông, tôi chỉ thỉnh nguyện ông một vài câu hỏi chung quanh bài thơ này.

Nhà thơ Tế Hanh và nhà văn Nguyễn Văn Xuân.

Nhà thơ TẾ HANH, một trong những gương mặt cuối cùng của Thơ Mới, đã qua đời vào ngày 16-7 tại nhà riêng, số 10 Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội sau một thời gian dài bị tai biến não, hưởng thọ 89 tuổi.

Ông tên thật là Trần Tế Hanh (sinh ngày 20-6-1921), là người con của quê hương Bình Sơn, Quảng Ngãi. Tham gia cách mạng từ tháng 8-1945, ông đã trải qua nhiều trọng trách quan trọng: Ban phụ trách Liên đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung Bộ, Ủy viên Thường vụ Chi hội Văn nghệ Trung ương; Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam khóa I, II; Ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam (1963), tham gia nhiều khóa BCH Hội Nhà văn Việt Nam với các chức vụ Trưởng ban Đối ngoại, Chủ tịch Hội đồng dịch, Chủ tịch Hội đồng thơ.

Ông cũng chính là một trong những hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Ông từng nhận Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng và lớn lao nhất là Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đợt 1 năm 1996.

Nhà thơ Tế Hanh cho biết: “Bài thơ Những ngày nghỉ học tôi viết vào năm 17 tuổi (1938). Lúc ấy tôi đang học ở Huế, nhà trọ cạnh đường ray xe lửa, mỗi lần nghe tiếng còi tàu rền rĩ ngang qua tôi rất nhớ nhà. Nhưng phải nói rằng, cảm xúc đầu tiên của tôi là được gợi ý từ một bài thơ của nhà thơ Pháp Sully Prudhomme (người đầu tiên trên thế giới đoạt giải Nobel Văn học, 1901 – TG chú thích).

Lâu ngày, tôi không nhớ chính xác tựa đề bài thơ của ông, nhưng đại để nội dung cũng viết về sự chia ly ở sân ga, trong đó có câu: những người đi kẻ ở, tạo nên sợi dây làm con tàu chậm lại. Từ ý thơ này, tôi viết câu: Con tàu không đủ sức đi mau. Trong tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, tôi đặt tên là Vu vơ, về sau tôi thấy Những ngày nghỉ học hợp với tuổi hoa niên hơn, nên đổi lại như cũ.

Nhắc đến những kỷ niệm về Huế, nơi ra đời bài thơ, nhà thơ Tế Hanh lại xúc động nói:

- Theo tôi, đời người có ba cái quý nhất: tuổi trẻ, tình yêu, thơ ca. Với Huế, và chỉ Huế tôi có được cả ba cái đó, sau này tôi không tìm được nơi đâu. Đây là thời gian tôi làm được những bài thơ đầu tiên như: Quê hương, Con đường quê, Những ngày nghỉ học... Tôi vẫn còn nhớ chính xác vào ngày 15-5-1935, tôi gặp người bạn gái của tôi trong một ngõ hẻm. Cô ấy hỏi: “Kỳ nghỉ hè này anh định về quê để làm gì?”. Tôi trả lời: “Tôi sẽ về quê hoàn thành một tập thơ”. Tập thơ này về sau có tên Nghẹn ngào, được giải thưởng Tự Lực văn đoàn (1940) - là viết để tặng cô bạn gái vừa nói, mặc dù nội dung tập hợp nhiều đề tài khác nhau.

Sau ngày hòa bình, vào năm 1985, tôi có trở lại thăm Huế, thăm cả cái sân ga ngày nào có chuyến tàu tôi đã làm bài thơ Những ngày nghỉ học, nhưng cảnh vật đã thay đổi quá nhiều. Tuy nhiên, có một điều đáng nhớ, ngay trong đêm trở lại đầu tiên, tôi nằm mơ gặp lại người bạn gái thời tuổi trẻ. Tôi có làm bài thơ Giấc mộng xuân nói về cảm xúc này:

Trở lại Huế đêm đầu tiên

Chiêm bao lại thấy gặp em thế này

Mười lăm, mười sáu thơ ngây

Mắt đầy cả nắng, hồn đầy cả trăng

Con đường đi học sương giăng

Lung linh hoa phượng kết đèn lưu ly

Lòng như tiếng sóng rầm rì

Câu thơ trên giấy nói gì yêu đương

Diệu kỳ thay giấc mộng xuân

Bốn mươi năm lẻ đã ngừng không trôi

Hay đôi bạn trẻ ngoài đời

Gặp nhau trong giấc mơ tôi tình cờ

Cảm ơn thành phố tuổi thơ

Cho tôi sống lại những ngày xưa xa

Từ đây cùng với thi ca

Tình yêu tuổi trẻ không già trong tôi

Nhắc đến những kỷ niệm đáng nhớ trong đời làm thơ, nhà thơ Tế Hanh nói rằng, đó là khi vừa phổ biến bài thơ Nhớ con sông quê hương, ông đã nhận được thư một đôi vợ chồng trẻ cảm ơn về bài thơ đó. Họ cho biết qua bài thơ này, họ đã quen nhau và thông cảm lẫn nhau. Ngoài ra, một số lần đi nước ngoài, những người Việt xa nhà gặp ông, cũng thường yêu cầu đọc lại bài Những ngày nghỉ học với sự đón nhận hết sức xúc động...

Thời trẻ tuổi, Hoài Thanh, Hoài Chân từng viết về Tế Hanh: “Hôm đầu tôi gặp người thiếu niên ấy, người rụt rè ngượng nghịu như một chàng rể mới! Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Đôi mắt nồng nàn lạ”.

Nghĩa là Tế Hanh có một đôi mắt rất đẹp Tuy nhiên, thời gian và bệnh tật đã cướp đi của ông cái tài sản quý giá đó. Còn nhớ, lần ấy, dù tôi đã gắng công cùng ông trở lại bên sân ga cũ của thời Những ngày nghỉ học, song vẫn không biết được tâm trạng của ông có còn “...đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Ông chỉ nói: “ Trong con mắt tôi, ngày đó, cái con tàu, cái sân ga ở Huế vẫn nhộn nhịp hơn, vẫn nôn nao hơn...”.

TRẦN TRUNG SÁNG

Nhà thơ Tế Hanh bên sân ga cũ của thời Những ngày nghỉ học.


TẾ HANH

Những ngày nghỉ học

Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi, đến những ga.
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt.
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.

Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau:
Có chi vương víu trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.

Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ
Lòng của người đi réo kẻ về.

Kẻ về không nói bước vương vương...
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ,
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương.


Vườn xưa

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hôm, sao mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ, cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thỉ gọi anh về
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ trở lại vườn xưa?
(1957)


Nhớ con sông quê hương

Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng

Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm của dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ

Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy
Bầy chim non bay lượn trên sông
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ

Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm hôm chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông


Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng miền Nam
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết


Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới


Quê hương ơi lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ đến nơi tôi hằng mong ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương...


 

;
.
.
.
.
.