.

Nhớ Đỗ Toàn...

.
Là một họa sĩ kiêm nhà điêu khắc thuộc thế hệ đầu tiên của ngành Mỹ thuật đất Quảng, không ít những tác phẩm của Đỗ Toàn để lại đã gắn liền với cảnh và người trên mọi vùng quê đất Quảng. Thế nhưng, mấy ai nhớ được vào ngày đầu tháng 5 hơn mười năm trước, ông đã lặng lẽ ra đi. Chỉ duy nhất một chiếc xe khách ọp ẹp cùng người thân đưa ông về miền quê cũ bên kia phía chân đèo.

Mô tả ảnh.
Cụm tượng “Người mẹ Việt Nam” tại Đài tưởng niệm thành phố Đà Nẵng.
 
Họa sĩ Đỗ Toàn tên thật là Đoàn Văn Toàn. Ông sinh năm 1940 tại Thừa Thiên-Huế. Tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế, Sư phạm Mỹ thuật Gia Định. Từ trước 1975, ông là giáo viên hội họa của Trường trung học Phan Châu Trinh (Đà Nẵng). Có lẽ chính vì vậy, khi nhắc đến ông, người ta thường gọi là họa sĩ, mặc dù, sự nghiệp của ông để lại phần lớn là các tác phẩm điêu khắc như các tượng chân dung Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu, Hoàng Diệu... và nhiều tượng đài trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên.

Cũng như phần lớn thế hệ học trò xuất thân từ Trường trung học Phan Châu Trinh trước 1975, dù trực tiếp học ông hay không, chúng tôi cũng đều hết mực ngưỡng mộ phong cách điềm đạm mà lại rất nghệ sĩ của ông. Từ giọng nói đầm ấm đến cách cầm viên phấn trên tay, họa sĩ Đỗ Toàn luôn tạo sức thu hút hấp dẫn, vừa chuẩn mực lại vừa như vượt khỏi khuôn khổ mô phạm, giáo điều.

Mô tả ảnh.
Đỗ Toàn bên phác thảo.
Vào những ngày đầu thành phố Đà Nẵng vừa giải phóng, để đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin tuyên truyền, cùng với nhiều họa sĩ chuyên nghiệp và kể cả nghiệp dư, Đỗ Toàn có mặt ở Khu triển lãm văn hóa Quảng Nam-Đà Nẵng (sau là Trung tâm Văn hóa triển lãm Đà Nẵng). Ông đã tham gia đóng góp phần lớn trong quá trình thể hiện thi công tượng Bác Hồ và cụm tượng Quảng Nam trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ tại đây.

Từ năm 1985 trở về sau, Đỗ Toàn thường về các vùng nông thôn đất Quảng để sáng tác và thi công các tượng đài. Cũng chính vào giai đoạn này, do đời sống tình cảm trải qua những biến động lớn, đầy trắc trở, nên ông làm rất nhiều thơ. Trong đó, Trường ca Rosa của ông có nhiều đoạn được thân hữu yêu chuộng  và thường ngâm nga:

“Hãy bước vào vườn Tagore đi em
 vì trên đời không gì bằng tình yêu và
                   sự chết
tình yêu
tôi dâng cho em tràn đầy
sự chết em hoàn toàn miên viễn trong tôi

Có thể nói
hoa hướng dương bắt đầu nở
em, mặt trời sao cứ ở sau lưng
em, mặt trời động vọng suốt đời tôi…”

Sau những tháng năm phong trần, lận đận, rồi những ngày tháng bình yên cũng đến với Đỗ Toàn. Ấy là vào thời điểm giữa năm 1999, ông trúng được vài công trình lớn, giải quyết được nhiều khúc mắc khó khăn của gia đình. Hầu như buổi sáng nào ông cũng thường đến ngồi tán gẩu với chúng tôi ở một quán cà-phê bình dân trên ngã tư cạnh trường Phan Châu Trinh. Bất chợt, một lần thấy vắng ông, mới hay tin vào đêm trước đó, ông đã đột quỵ và liệt bán thân.

Thời gian Đỗ Toàn nằm bệnh, tôi và thầy Nguyễn Văn Xuân (bấy giờ vẫn còn rất mạnh khỏe) thường đến thăm ông. Mỗi lần nghe thầy Xuân nói đùa: “Cha ni cái chi cũng chết hết rồi, chỉ còn một cái... vẫn sống”, dù không còn nói thành lời, nhưng ông vẫn gắng gượng rướn phần còn lại của cơ thể bày tỏ sự vui vẻ hưởng ứng.

Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng - người bạn thân thiết của Đỗ Toàn đã nhắc về ông: “… Sắc màu Đỗ Toàn mang vào tác phẩm hội họa còn đó tím Huế, xanh biển và chút xám đơn lẻ trong tâm tưởng loài cây trút lá. Đỗ Toàn đã để lại cho gia đình, bằng hữu hình ảnh một con người đến gần cảnh giới chân thiện mỹ, một gương mặt nghệ sĩ. Và chừng đó cho chúng tôi nhớ mãi một Đỗ Toàn dù anh đã ra đi như chiều đi, gọi chim vườn bay hết...”.                 
                                                                                     
Trước lúc Đỗ Toàn vĩnh viễn ra đi, một lần nhóm anh em thân hữu đã thuê một chuyến taxi chạy vòng quanh Đà Nẵng để ông ngắm nhìn những đổi thay của thành phố và kể cả những cảnh quan đầy kỷ niệm có phần đóng góp bàn tay tài hoa của ông như Đài tưởng niệm thành phố, Trường THPT Phan Châu Trinh... Và đó là lần cuối cùng người ta thoáng bắt gặp trên môi ông nụ cười mãn nguyện...

TRẦN TRUNG SÁNG
;
.
.
.
.
.