.
Hồ sơ tên đường: Đường Phạm Văn Nghị

Con đường của lòng tri ân

.
Đoạn đường dài gần 700m từ  đường Nguyễn Văn Linh (bên cạnh Bệnh viện Hoàn Mỹ) đến giáp đường Nguyễn Tri Phương thuộc quận Thanh Khê mang tên Phạm Văn Nghị, là sự  thể hiện lòng tri ân của người dân Đà Nẵng với vị Đốc học người Nam Định.

Mô tả ảnh.
Đường Phạm Văn Nghị.  Ảnh: V.T.L
 
Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha gồm 14 chiến thuyền với hơn ba  ngàn quân được trang bị vũ khí  hiện đại, dưới sự chỉ huy của tướng Regault De Genouilly tấn công Đà Nẵng, mở màn cho cuộc xâm lăng của Pháp vào Việt Nam.

Căm phẫn trước hành động xâm lược của Pháp, ở tận đồng bằng sông Hồng, Đốc học Nam Định là Phạm Văn Nghị đã dâng Trà Sơn kháng sớ lên vua Tự Đức và đứng ra chiêu mộ đội nghĩa binh gồm 365 người với ý  định kéo vào Đà Nẵng quyết sống mái cùng quân thù.

Phạm Văn Nghị, có tên chữ là Nghĩa Trai, sinh ngày 24-12-1805 tại xã Tam Đăng, huyện Đại An, tỉnh Nam Định (nay là Yên Thắng, Ý Yên, Nam Định), đỗ Cử nhân năm 1837, đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ năm 1838. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Tu soạn viện Hàn lâm rồi Tri phủ Lý Nhân (Nam Định). Năm 1845, ông cáo bệnh từ quan về nhà mở trường dạy học, học trò ông nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Khuyến, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Nguyễn Cao... Năm 1858, ông được bổ lại, làm Đốc học Nam Định.

Khi thành lập xong đội nghĩa dũng, Phạm Văn Nghị bàn giao việc dạy học lại cho người bạn đồng khoa là Tiến sĩ Doãn Khuê rồi kéo quân Nam tiến. Nhưng khi nghĩa binh vừa đến Huế, thì quân Pháp ở Đà Nẵng do không chịu đựng nổi cuộc phản công của quân đội Nguyễn Tri Phương và quân dân Quảng Nam cùng thời tiết khắc nghiệt nên rút vào tấn công Gia Định. Phạm Văn Nghị được vua Tự Đức sắc phong 4 chữ “Tuế hàn tùng bách” (ý chỉ Phạm Văn Nghị như cây tùng cây bách, trong giá lạnh vẫn cứng cỏi) rồi bắt ông phải đưa đoàn quân trở về Bắc, dù ông năn nỉ xin được tiếp tục vào Nam chống giặc.

Quyết định của vua Tự Đức gây thất vọng lớn cho Phạm Văn Nghị và đoàn quân nghĩa dũng. Qua bài thơ Sơn Trà quân khứ, ông đã giãi bày tấm lòng yêu nước và trách vua không cho ông được thực hiện ý nguyện của mình: “Bảo tới bảo lui đành cam chịu/ Rằng đúng rằng sai mặc luận bàn”.

Hành động của Phạm Văn Nghị gây xúc động mạnh trong dư luận sĩ phu đương thời, khơi dậy tinh thần trách nhiệm của kẻ sĩ trước vận nước đang nghiêng ngả.

Năm 1873, thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kỳ, tấn công thành Hà Nội và các tỉnh lân cận, Phạm Văn Nghị tiếp tục mộ quân chống giặc. Ngày 10-12 năm đó, ông cùng nghĩa quân chặn đánh Pháp ở Đốc Bộ, thế yếu ông lui binh về đóng ở núi Yên Hàm (Ý Yên). Nhưng lúc này triều đình đã thỏa hiệp với giặc ký Hòa ước Giáp Thân nhượng quyền, nhượng đất cho Pháp. Phạm Văn Nghị lại phải giải tán đội quân nghĩa dũng của mình.

Sau khi làm hết sức mình cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nhưng không được toại nguyện, bị triều đình ngăn cản và tuổi già sức yếu, ông đành lui về ở ẩn tại động Liên Hoa (Ninh Bình) rồi mất ở đó năm 1880. Khi ông 70 tuổi, học trò cũ của ông là Tiến sĩ Tống Duy Tân đã viết tặng thầy: “Phong lãng kỷ hồi, đại nghĩa ná tri đầu phát bạch/ Giang sơn vô dạng, cố viên nhưng hữu cúc hoa hoàng.” (Sóng gió nhiều phen, nghĩa lớn sá chi đầu tóc bạc/ Giang sơn yên ổn, vườn xưa còn đấy luống hoa vàng).

Tinh thần yêu nước và sĩ khí của Đốc học Phạm Văn Nghị là một chấm son trong truyền thống của các nhà giáo Việt Nam. Nhiều nhà giáo Quảng Nam như Giảng tập Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư; Đốc học Phạm Như Xương; Giáo thọ Trần Quý Cáp... đã viết tiếp truyền thống vẻ vang này.

LÊ THÍ
;
.
.
.
.
.