.
Hồ sơ tên đường

Tam nguyên Yên Đỗ-Nguyễn Khuyến

.

Đỗ đầu 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, Nguyễn Khuyến đã làm vinh danh làng quê của mình khi được người đời truyền tụng là “Tam nguyên Yên Đỗ”.

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) ban đầu có tên là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho (cha ông đỗ ba khóa tú tài, dạy học), ông thông minh, chăm học và học giỏi.

Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng khóa với cha, nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, ông phải đi dạy học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lý, học trò cũ của người bác của ông thương tình, đem ông về nuôi cho ăn học tiếp.

Năm 1864, ông đỗ đầu thi Hương (Giải nguyên) ở trường Nam Ðịnh. Năm sau vào kinh thi Hội không đỗ, ông bèn đổi tên là Nguyễn Khuyến với ý tự động viên, khuyến khích mình rồi ở lại Huế, học ở Quốc tử giám. Năm 1871, ông thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Từ đó, người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Ðỗ (người đỗ đầu ba kỳ thi làng Yên Đỗ).

Ông từng làm quan ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lý Bộ Hộ,... Thời gian ông ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và tiến đánh ra miền Bắc.

Năm 1883, triều đình ký hàng ước với Pháp, ông cáo quan về nhà. Đang dưỡng bệnh ở quê nhà, thì được lệnh nhậm chức Quyền Tổng đốc tỉnh Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng ông thoái thác không đi. Tổng đốc Nam Định Vũ Văn Bảo là con thầy học cũ của ông, theo lệnh của thực dân Pháp đến mời ông trở lại làm việc, ông viện cớ già yếu nhất định từ chối. Bị chúng theo dõi và làm khó dễ, ông đành để người con là Nguyễn Hoan ra làm việc với chúng.

Sau đó Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải mời ông đến nhà dạy học, rồi Tuần phủ Hưng Yên Lê Hoan tổ chức vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảo. Khải, Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp, biết từ chối lời mời của họ thế nào cũng sẽ sinh chuyện lôi thôi nên ông đành miễn cưỡng nhận lời.

Khi Pháp tấn công chiếm kinh thành Huế, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.


Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, nhiều kẻ làm tay sai cho thực dân, Nguyễn Khuyến không thể làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin cáo quan về ở ẩn, tâm trạng từ đó mà trở nên bất mãn, bế tắc. Ông có bài Tự trào giễu cợt mình, trong đó có đoạn: Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang/ Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng/ Cờ đang nửa cuộc không còn nước/ Bạc đánh ba quan đã chạy làng…

Sáng tác của ông hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm; đáng kể hơn hết là “Quế Sơn thi tập” khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung: Bộc bạch tâm sự của mình; viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, cơ hội lúc bấy giờ.

Đà Nẵng đặt tên ông cho con đường dài 1.380m, rộng bình quân 5,75m (ảnh), từ đường Tôn Đức Thắng qua Trường Bưu điện đến Trung tâm Hành chính quận Liên Chiểu, theo Nghị quyết số 06-2000/NQ-HĐ ngày 19-7-2000 của HĐND thành phố khóa VI về đặt tên một số đường của Đà Nẵng.

 LÊ GIA LỘC

;
.
.
.
.
.