.
Kỷ niệm 45 năm Chiến thắng Ngã ba Đồng Lộc (1968-2013)

Nơi máu xương thắm đỏ

.

Tôi trở lại Đồng Lộc bây giờ đã khác. Bạt ngàn rừng thông. Xanh rưng rức. Một hệ thống khu di tích được xây dựng khá hoàn chỉnh và trang nghiêm. Đó là tượng đài chiến thắng nằm dưới khuôn viên khu di tích. Là nhà bia tưởng niệm khắc tên 1.950 anh hùng liệt sĩ, TNXP toàn quốc và các anh hùng liệt sĩ hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc. Là khu mộ mười nữ liệt sĩ được đưa về đúng nơi các cô đã hy sinh sau ba lần dời mộ.

Cụm tượng đài và tháp chuông Đồng Lộc.
Cụm tượng đài và tháp chuông Đồng Lộc.

Khu di tích còn có phòng truyền thống Ngã ba Đồng Lộc với hệ thống sa bàn lập trình bằng điện tử tái hiện chiến trường Đồng Lộc. Ở đây có nhiều hiện vật quý như: Bức thư chị Võ Thị Tần gửi mẹ, dây điện và thỏi nam châm phá bom của anh Vương Đình Nhỏ, bát ăn cơm của các cô.

Bước qua cửa vào phòng truyền thống, tấm ảnh phá bom của anh hùng Vương Đình Nhỏ nhìn tôi thật ám ảnh. Một cô gái nhỏ nhắn mặc áo đồng phục hướng dẫn viên bảo tàng đang lau mặt kính từng tấm ảnh. Khi cô lau tấm ảnh của anh Vương Đình Nhỏ, tôi đưa máy lên chụp liền hai kiểu. Lát sau, tôi mới biết đó chính là Vương Thị Thương, con gái út của anh Vương Đình Nhỏ.

Thương kể: “Lần đi tìm hài cốt của cha ở Quảng Trị do mệt quá nên chiếc ba lô đựng hài cốt của cha cùng đồng đội (do bị bom nổ bất ngờ nên tất cả chôn chung một mộ) để ngay dưới sàn nhà. Đêm đó, Thương lên cơn sốt nặng,  mơ thấy cha về trách: Sao lại để dưới đất hả con! Thương liền gọi về cho mẹ đang ở ngoài quê Đồng Lộc thắp hương cho cha trên bàn thờ khấn mãi. Lát sau Thương tỉnh dần và khỏe hẳn để theo kịp đoàn đưa hài cốt về quê”.

Chị Đặng Thị Yến bên mộ Hồ Thị Cúc.
Chị Đặng Thị Yến bên mộ Hồ Thị Cúc.

Trong ký ức của Thương, bố Nhỏ có vóc người nhỏ nhắn, da đen, rất hiền và có đôi tay thật tài hoa không những giỏi phá bom mà còn phá bom không ảnh hưởng đến đường, lại có thuốc nổ phục vụ cho công binh san đường nữa. Bố của Thương không chết vì bom đạn trong chiến tranh mà lại chết vì mở một quả bom sau chiến tranh do cuộc sống đời thường khó khăn để lấy tiền cho con ăn học và bố chữa bệnh. Sau bao thăng trầm, Vương Đình Nhỏ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng ngày 23-5-2005.

Có lần, nhà văn Đức Ban kể cho tôi nghe những chuyện rất cảm động về cuộc đời của mười cô gái Đồng Lộc.  Cuộc tình của chị Võ Thị Tần và anh Nguyễn Đình Hồng thật giản dị. Anh Hồng vào bộ đội, họ chia tay nhau bên ngọn đèn dầu trong gian bếp nhà Tần. Chị nói: “Anh đi khi mô hoàn thành nhiệm vụ thì ta mần lễ cưới”. Anh Hồng lặng đi: “Chịu khó đợi Tần nhé, nhất định anh sẽ về”, chị Tần tiễn anh Hồng ra sân, giúi vào tay anh một hộp giấy màu đỏ và xinh xắn. Trong hộp là tấm ảnh chân dung của Tần và một lọn tóc mềm đen nhánh. Từ đó, tấm ảnh và lọn tóc thề thủy chung của Tần theo anh từ mặt trận B5 vào Tây Nguyên ra Cồn Cỏ. Bây giờ lọn tóc đã thành kỷ vật thiêng liêng trong bảo tàng. Lọn tóc vẫn đen với thời gian không bao giờ bạc trắng.

Võ Thị Hà, cô gái trẻ nhất có lần nói với Tiểu đội phó Hồ Thị Cúc: “Em nhớ mẹ quá - mai kia thằng Mỹ bị diệt, việc đầu tiên là em chạy về cùng mẹ và rủ mấy thằng em ào xuống Sông La, cào hến...”. “Cho chị về cùng” - Cúc nói và hai chị em cùng cười. Giờ thì cả hai chị em đã về cùng bến sông qua bên trần gian bên kia thế giới. Chắc họ được siêu thoát thanh thản, tắm gội bồ kết trên dòng sông tâm tưởng của mình - một dòng sông trong suốt không có bên bồi, bên lở.

Vương Thị Thương trước di ảnh của cha - liệt sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ.
Vương Thị Thương trước di ảnh của cha - liệt sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ.

Rồi bữa Hà Thị Xanh rủ Võ Thị Hà về thăm nhà mình. Hai người ra sông tắm giặt rồi về giã gạo thổi cơm. Mẹ Xanh thịt cho bằng được con gà. Mẹ bảo: “Bom đạn như ri mấy khi bây về được”, Hà vừa cười giòn tan: “Chúng con ăn với mẹ bữa cơm cuối cùng...”. Mẹ Xanh chửi mấy đứa dại mồm. Điều lo lắng thật linh nghiệm. Mười ngày sau họ đã trở thành những anh hùng bất tử.

Người bạn thơ của tôi tên là Yến Thanh đã viết nên bài “Cúc ơi” trong đầm đìa nước mắt. Hôm đó anh ngồi trong vườn tro có đặt cái hòm không vì chưa tìm thấy Hồ Thị Cúc. Bài thơ như một lời gọi hồn liệt sĩ: Tiểu đội đã xếp một hàng ngang/Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp/ Chín bạn đã quây quần đủ hết Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh/ A trưởng Võ Thị Tần điểm danh/Chỉ thiếu mình em/ Chín bỏ làm mười răng được…”.

Kỳ  lạ thay,  trưa hôm sau (ngày 26-7) đồng đội đã tìm thấy Cúc đang ngồi ở một hầm tròn cách xa nơi chín cô ẩn nấp vài chục mét. Đầu Cúc bẹp dí, vai Cúc tựa vào cuốc, thi thể còn nguyên vẹn, bầm tím. Mười ngón tay đầy máu khô, có lẽ Cúc đã cào bới nhưng vô vọng. Mọi người đoán Cúc vốn là người rất chu đáo hay chăm lo cho mọi người. Ở cương vị Tiểu đội phó chị chờ cho chín người xuống hầm trú ẩn còn mình thì không kịp, chị chạy vào ngách hầm tròn khoét ở vách núi và bị đất vùi lấp.

Yến Thanh kể: Lần nào về Đồng Lộc thắp hương, đến mộ Hồ Thị Cúc thì mấy cây hương bỗng cháy bùng lên. Có một sự giao cảm bí ẩn nào đó giữa người sống và người chết. Bài thơ vẫn còn sống mãi như một tượng đài bắt đầu từ tiếng gọi hồn tha thiết: “Cúc ơi”. Và trên mộ các chị, ngày ngày những đóa hoa cúc vẫn nở tươi, vẫn đau đáu nhìn mọi người với một niềm tin bất diệt các chị vẫn sống mãi với tuổi trẻ hai mươi của mình.

Ba tấm áo thanh niên xung phong của chị Võ Thị Hợi, Nguyễn Thị Xuân và Trần Thị Hường.
Ba tấm áo thanh niên xung phong của chị Võ Thị Hợi, Nguyễn Thị Xuân và Trần Thị Hường.

Ở Bảo tàng Đồng Lộc có một người phụ nữ mà mọi người trìu mến gọi thân thương “Cô gái thứ mười một”. Ấy là chị Đặng Thị Yến, Phó Ban quản lý Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc. Hơn ba mươi năm, chị lặng lẽ đi góp nhặt những lọn tóc, lược cài, những bức thư, những tấm áo dính bụi thời gian của mười cô gái và đồng đội để lại trước lúc hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc. Chị nói: “Kỷ vật của người đã mất là cả gia tài của tôi”. Có thời gian, gia đình gặp nhiều khó khăn khi chị phải chia tay với người chồng, đưa ba đứa con nhỏ về ở tạm trong căn nhà chật hẹp. Đến nay các con chị đều đã trưởng thành có công việc đàng hoàng ở Hà Nội. Chị nói rằng, khi xin việc cho con hình như ai cũng sẵn lòng giúp đỡ. Có lẽ linh hồn các cô phù hộ cho chị.

Gắn bó với ngã ba huyền thoại, chị thuộc từng ngọn cây ngọn cỏ, nâng niu chăm sóc từng hiện vật. Có lần chị đã bật khóc khi nhìn thấy chiếc áo đầy mảnh vá của Hồ Thị Cúc. Vượt hơn trăm cây số thuyết phục mãi người nhà đã đồng ý để chị đưa chiếc áo của Cúc về trưng bày ở bảo tàng. Chị rơm rớm: “Dường như chiếc áo của chị Cúc cũng như cuộc đời của chị ấy, chiếc áo vàng ố nhăn nheo rất nhiều mảnh vá. Tuổi thơ của Cúc là chuỗi ngày đầy nước mắt...”.

Buổi sáng ở Ngã ba Đồng Lộc, tôi bất ngờ gặp chị Yến đang lúi húi sửa lại từng chiếc lược, tấm gương tròn trên mộ các cô. Chị nói: Tôi đã định đi Hà Nội nhưng cứ nấn ná mãi.

Trước lúc đi đâu xa, chị Yến cũng dành thời gian để ra “rửa mặt” cho các cô vào buổi sáng. Đó là việc làm khá quen thuộc như lấy nước ngâm bồ kết, gội đầu cho các cô. Chị kể: Có lần chị ôm mười tấm ảnh các cô lồng trong khung kính ngồi sau chiếc xe Minkhơ của một người bạn đồng nghiệp đi về ngã ba. Không may anh lái xe máy khi xuống dốc tránh chiếc xe công nông, đã va đập vào mô đất ven đường, xe và người lật tung. Chị có cảm giác mình bị nhấc bổng lên và được thả xuống vệ cỏ ven đường. Cả mười tấm ảnh nguyên vẹn không bị vỡ kính và chị cũng không xây xát chút nào. Rồi chị kể cho tôi nghe về những bông hoa súng trồng trên mặt nước trong cái hố bom thật mà các cô đã hy sinh. Đến mùa nở hoa, lúc nào cũng rực rỡ mười bông. Về ngày cúng giỗ cho các cô đều làm vào trưa 24 tháng 7, nếu chuyển sang buổi chiều hay ngày khác là các cô báo mộng không vừa lòng. “Tuổi của họ còn rất trẻ mà, cứ ríu rít bên nhau và vẫn hay hờn dỗi, phụng phịu thật hồn nhiên chú ạ”. Đến tuổi nghỉ hưu, nhưng ai cũng muốn níu chân chị Yến ở lại. Người phụ nữ nhỏ bé mảnh mai ấy cứ thấp thoáng xuất hiện mà tôi cứ ngỡ như đang gặp một trong mười liệt nữ đã nằm lại nơi đây.

Dừng chân trước tháp chuông bảy tầng thiêng liêng ở Đồng Lộc, tôi nghe như tiếng chuông ngân vọng, ôm choàng cả khu di tích. Bao máu xương đã thấm đỏ đất này...

NGUYỄN NGỌC PHÚ

;
.
.
.
.
.