Đà Nẵng cuối tuần
Ché, biểu tượng của tình đoàn kết và sự thịnh vượng
Trong một chuyến khảo sát nhân học về trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi ở tỉnh Quảng Nam, khi đến Huyện ủy Đông Giang vào giữa năm 2014, ấn tượng đầu tiên của chúng tôi là hình tượng của ba cái ché to lớn màu vàng đất tựa vào nhau được phục chế bằng xi-măng dựng ngay tại sân trước của cơ quan này.
Thanh niên Cơtu hãnh diện vác cái ché múa trong lễ đâm trâu. Ảnh:T.K.P |
Trong bữa cơm chiều, ông Nguyễn Bằng, Bí thư Huyện ủy Đông Giang, người Cơtu nói rằng, chính ông đã có ý tưởng dựng ba cái ché này, vì: “Cái ché tượng trưng cho sự giàu có; sự đoàn kết; sự giao tiếp: đối ngoại-đối nội; và nghi lễ trong văn hóa truyền thống của người Cơtu”. Ba cái ché tượng trưng cho ba huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam là Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang nơi có đa số người Cơtu sinh sống.
Cho nên khi chọn hình tượng ba cái ché để dựng tại cơ quan huyện ủy, ông Bằng hàm ý rằng người Cơtu ở ba huyện miền núi này sẽ đoàn kết để xây dựng và phát triển kinh tế cũng như bảo tồn văn hóa truyền thống của mình. Điều đó cho chúng ta biết rằng cái ché vẫn còn một sức sống mạnh mẽ trong sinh hoạt và gắn bó mật thiết với tình cảm của người Cơtu cho đến hiện nay.
Vật thiêng trong gia đình người Cơtu
Vào nhà ở của một gia đình người Cơtu, chúng ta thường thấy những hàng ché đủ các loại khác nhau, từ kiểu dáng cho đến màu sắc và hoa văn, được bày ngang trên một cái kệ cao đóng vào vách sau của nhà sàn; theo quan niệm của người Cơtu, ché đó là để “làm của” (zôn kavan/đồ ti), khẳng định sự giàu sang và địa vị trong xã hội. Nhà giàu thì có đến vài chục cái; nhà nghèo chí ít cũng sắm được một vài cái. Cái ché tham gia vào hầu hết các sinh hoạt chủ yếu trong xã hội của người Cơtu, từ hôn nhân cho đến tang tế.
Người Cơtu quan niệm cái ché (jớ/chớ) như một vật thiêng (jớ ring), vì vậy, họ có nhiều nghi thức để cúng ché (bhuôil jớ). Khi mua được một cái ché mới, họ tổ chức một lễ nhỏ để cúng mừng ché (bhuôil kâl jớ), vật cúng chỉ là một con gà và một chai rượu để thết đãi bà con quanh xóm; nếu mua được một cái ché quý, thì vật cúng có thể là một con heo và vài ché rượu để mời cả làng; và, khi bán một cái ché, người Cơtu cũng làm lễ cúng tiễn ché (bhuôil tr’xâl jớ).
Ché được dùng để cất chứa các vật quý như: mã não, hạt cườm và vải dệt thổ cẩm (azuông); các vật quý này được cất giữ trong ché để tránh bị côn trùng, chuột hoặc các loại thú khác cắn phá. Trong chiến tranh, người Cơtu chôn giấu những ché quý khi dời làng vào núi sâu để tránh bom đạn; khi hết chiến tranh, họ tìm về chỗ cũ để đào lấy những cái ché đã được giấu. Ngoài ra, ché còn được dùng để ủ rượu và đựng rượu.
Ông A Tùng Vẽ, một già làng của làng Gừng, thị trấn Prao, huyện Đông Giang, cho biết, gia đình ông có một cái ché quý do ông bà để lại. Khoảng những năm 1960, bộ đội địa phương đã mượn cái ché của gia đình ông để đựng muối, được giấu trong hang núi để tránh bom đạn. Sau chiến tranh, đầu những năm 1980, ông và anh ông đã lên núi tìm lại cái ché để mang về và được gìn giữ như một vật gia bảo, vì nó đã được truyền qua nhiều đời. Khi đem ché từ hang núi về lại gia đình, ông đã làm một lễ cúng ché để cảm tạ thần linh (abhuoi) đã gìn giữ cho cái ché còn nguyên vẹn.
Đó là một cái ché cũ bằng sành, màu nâu, có kích thước lớn, xương gốm dày và nặng.(1) Theo ông A Tùng Vẽ, ché quý (jớ ti) không nhất thiết phải là ché có niên đại cổ xưa, nhưng, đôi khi là một cái ché được nổi tiếng trong cộng đồng là ché thiêng (jớ ring); và, nhất là, những cái ché đã được lưu truyền qua nhiều đời, cho nên gia đình ông rất tự hào vì đã giữ được cái ché quý này mà theo ông là vô giá.(2)
Trong hôn nhân, ché là một vật dẫn cưới quan trọng của người Cơtu, nó là tài sản phải có khi làm lễ đính hôn và lễ cưới. Khi một gia đình muốn “bắt vợ” cho con trai thì phải có ít nhiều ché để làm sính lễ; nhà trai càng giàu thì phải trả càng nhiều ché theo tục lệ thách cưới, đòi sính lễ (panooih)(3) của nhà gái.
Trong một nghiên cứu, nhà dân tộc học Lưu Hùng đã nêu lên một trường hợp rất thú vị về sự lưu chuyển của một cái ché qua các cuộc hôn nhân, đó là trường hợp cái ché của gia đình ông Alăng Pêếc, ở làng Pr’ning, xã Lăng, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam. Ông Bríu Trưng ở làng Arớ, xã Lăng nhớ rằng cái ché được mua về từ bên Lào và đã thừa kế nó từ nhiều thế hệ trước. Vào khoảng giữa thế kỷ 20, nó trị giá một con trâu.
Khoảng năm 1957-1958, ông Trưng cưới em gái của Pêếc và cái ché được dùng làm vật sính lễ. Từ đó, nó thuộc về gia đình ông Pêếc. Năm 1978, con trai của Pêếc cưới con gái của Clâu Nâm ở cùng làng, và cái ché được chuyển từ gia đình ông Pêếc qua gia đình ông Nâm. Năm 1979, em trai của Nâm cưới con gái của Coor Nhir ở cùng làng, và cái ché đã đi từ nhà ông Nâm sang nhà ông Nhir. Năm 1980 khi ông Nhir cưới em gái của Bríu Póh, và cái ché chuyển từ nhà ông Nhir sang nhà ông Poh. Năm 1981, khi ông Poh cưới chị gái của Alăng Pêếc. Như vậy, sau hơn hai mươi năm lưu chuyển qua nhiều gia đình(4), cái ché lại quay trở về nhà ông Pêếc.
Sợi dây liên kết giữa tổ tiên
Cái ché có liên quan mật thiết đến phong tục uống rượu, cũng như các dân tộc khác ở miền Thượng, người Cơtu uống rượu không chỉ để giải trí, mà là để tạo mối liên kết, thảo luận, bàn bạc các vấn đề có liên quan đến cộng đồng hoặc của cá nhân; rượu kết nối giữa con người với con người trong các sinh hoạt xã hội và giữa con người với thần linh trong các nghi lễ. Rượu có mặt trong tất cả các sinh hoạt chính trong xã hội Cơtu như lễ hội, cúng tế, kết nghĩa, cưới hỏi, giao tiếp, tang lễ … Vì thế, có thể nói rằng nếu không có cái ché, thì, nghi thức uống rượu của người Cơtu (um buah) và của các sắc tộc miền Thượng, chắc chắn không thể hoàn mỹ.
Trong tang lễ, ché được chôn theo người chết theo tục “chia của cho người chết” (xi noor) của người Cơtu; trong trường hợp này, cái ché phải bị đục thủng ở đáy, gọi là “giết cái ché” (pacệt jớ) để chôn quanh nhà mồ (ping).
Ngoài công năng thực dụng, đối với đồng bào miền Thượng, ché là một tác phẩm nghệ thuật, nên việc lựa chọn ché để sưu tập đòi hỏi một sự thưởng lãm nghệ thuật cao; phải là những người sành điệu thì mới có thể phân biệt được ché cổ và ché mới hoặc thưởng lãm được vẻ đẹp của các loại ché. Người Cơtu phân chia thành nhiều loại, trong đó, loại ché màu nâu có điểm hạt cườm (jớ a’jrai) là quý hơn cả.
Trong nghệ thuật điêu khắc, bước vào những ngôi nhà làng hay gươl của người Cơtu, chúng ta thường thấy hình tượng của cái ché được trang trí trang trọng trên cột cái (j’răng măng) của gươl; ché cũng được ưa thích chạm khắc trên đầu cột đâm trâu (xanur); và nó cũng được trang trí phổ biến trên nhà mồ (ping). Tham dự một lễ đâm trâu để mừng lúa mới (caharo tame) được tổ chức tại trung tâm huyện Tây Giang hồi tháng 3-2014, chúng tôi thấy thanh niên Cơtu hãnh diện vác trên vai họ những cái ché lớn màu xanh trắng, cùng nhảy múa theo tiếng chiêng trống trong khi những người khác cầm gươm giáo hò hét, reo vui…
Để có được những cái ché đẹp vừa ý, người Cơtu phải xuống các chợ vùng xuôi để trao đổi với những bạn hàng thân thiết/kết nghĩa (pr’đì noh) người Kinh. Trước kia, ở vùng Quảng Nam, người Cơtu thường gùi hàng xuống các chợ lớn như Hà Tân, Ái Nghĩa, Túy Loan… để đổi các loại ché, chiêng; ngược lại, các bạn hàng/ “các lái” người Kinh cũng thường đem các mặt hàng cao cấp này lên tận các làng xa để bán/đổi cho họ.
Thông thường, ché đẹp và/hoặc quý được những người trung gian (ađor lướt đơl) giới thiệu từ người Kinh tới người Cơtu hoặc giữa người Cơtu với nhau một khi có nhu cầu trao đổi. Khi chọn được những cái ché “ưng bụng”, người Cơtu sẽ bàn cách mua ché hoặc đổi bằng sản phẩm rừng ngang giá hoặc trả bằng tiền mặt (trước kia đơn vị để trao đổi được tính bằng con trâu); nhiều khi họ mua chịu và trả dần thành nhiều đợt.
Gần đây, chúng tôi thấy thương lái người Kinh lên đến làng Pr’ning, xã Lăng, huyện Tây Giang để đổi đồ gốm sứ gồm ché, chén, đĩa cho người Cơtu. Mặt hàng trao đổi gồm các loại lâm sản như mật ong, hạt ươi, nấm quý, măng... Ngày nay đường sá đi lại dễ dàng nên sự trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi nhanh chóng và thuận tiện hơn trước rất nhiều, nhờ vậy, người Cơtu tiếp tục giữ được sở thích cao quý của mình để sưu tập thêm nhiều ché trong tâm thế bảo tồn văn hóa truyền thống tộc người.
Theo nhà dân tộc học người Thụy Điển, Kaj Arhem, trong văn hóa Cơtu, cái ché (jớ) là vật chứa cái sống trong khi cái hòm (p’rang) là vật chứa cái chết; cả hai hiện vật đều được cất giữ trong cùng một ngôi nhà (đoong). Khi đến tuổi già người Cơtu thường được người thân chuẩn bị một cái hòm gỗ cho riêng mình và nó được cất giữ ở dưới nhà sàn. Arhem đã luận giải rằng, cái ché tượng trưng cho sự giàu có của dòng họ (drươp) cho nên chúng được cất giữ/trưng bày thành những hàng dài trên một cái kệ đóng ở lưng chừng vách sau đối diện với cửa vào (parah), là nơi trang trọng nhất của một ngôi nhà; còn cái hòm tượng trưng cho cái chết cho nên nó được đặt trên mặt đất về phía sau vách nhà sàn, ở dưới và cách xa hàng ché.(5) Cái ché tượng trưng cho sự sống, còn cái hòm tượng trưng cho sự chết. Trong văn hóa Cơtu, cái ché mang nhiều biểu tượng, nó là sợi dây liên kết giữa tổ tiên với người sống cho tới người chết.
Cùng với cái chiêng (ching), ché là một trong những tài sản quý báu nhất theo quan niệm của người Cơtu cũng như của đồng bào miền Thượng. Nếu chúng ta có một nền văn hóa cồng chiêng đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của UNESCO; thì, theo nhiều nhà nghiên cứu, cái ché cũng là một di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc miền Thượng,(6) nó cần được nghiên cứu sâu hơn và cần được bảo tồn theo đúng giá trị tinh thần và vật chất của chính nó.
TRẦN KỲ PHƯƠNG - NGUYỄN THƯỢNG HỶ
(1) Chúng tôi có tham vấn bà Louise Cort, một chuyên gia về gốm sứ Đông Nam Á ở Bảo tàng Sackler Gallery, Washington, D.C., về cái ché quý của ông A Tùng Vẽ; bà cho biết rằng cái ché này sản xuất vào đầu thế kỷ 20 tại một lò gốm ở Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (email ngày 17-8-2014).
(2) Giá trị của mỗi cái ché tùy theo sự thương lượng giữa chủ sở hữu và người muốn chuyển nhượng, dường như không có một định giá tiêu biểu; Georges Condominas, nhà nhân học lỗi lạc người Pháp, đã từng chứng kiến việc định giá một cái ché cổ ở người Mnông Gar, ông viết: “Đó là một cái ché cổ rất đẹp thấy ở Daak Bok, trên núi, và người chủ đã tự hào định giá nó bằng một con voi có đôi ngà dài như cánh tay. Cái ché còn được coi là một hêeng rmeh (“hồn”- rồng)” (Condominas, G., Không gian xã hội vùng Đông Nam Á [người dịch: Ngọc Hà, Thanh Hằng; người hiệu đính: Hồ Hải Thụy], Nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr. 384).
(3) Phan Thị Xuân Bốn, "Bản Craveh-Nal, một làng Cơtu điển hình", Ngoklinh, Số 3, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Đà Nẵng, 10. 2002, tr. 57 [50-58].
(4) Lưu Hùng, “Introduction to Jars in the Life of Ethnic Groups in the Central Highlands of Vietnam,” [“Giới thiệu cái ché trong đời sống các dân tộc ở Tây Nguyên”], Ceramics in Mainland Southeast Asia: Collections in the Freer Gallery of Art and Arthur M. Sackler Gallery, 2008, http://SEAsianCeramics.asia.si.edu
(5) Arhem, Kaj, The Katu Village: An Interpretive Ethnography of the Avuong Katu in Central Vietnam, [Làng Katu: Một dân tộc chí luận giải về người Katu A Vương ở miền Trung Việt Nam], SANS, Papers in Social Anthropology, University of Gothenburg, 2010, tr.227-36.
(6) Luu Hung, đã dẫn.