Đà Nẵng cuối tuần

Phương hay Thuốc quý

"Thần dược" Giun đất

07:25, 06/06/2015 (GMT+7)

Cách đây gần hai chục năm, từ một “tư liệu y học” đăng nhiều kỳ trên một tờ báo tỉnh, sau được nhiều báo khác giới thiệu tiếp, thế là dẫn đến một phong trào rầm rộ sử dụng bài thuốc “Thần dược cứu mệnh” cho nhiều bệnh chứng nan y, hôn mê do xuất huyết não...

Giun đất trong bài thuốc “Thần dược cứu mệnh” huyền thoại một thời. (Ảnh: Internet)
Giun đất trong bài thuốc “Thần dược cứu mệnh” huyền thoại một thời. (Ảnh: Internet)

Bài thuốc gồm 3 vị là giun đất phơi khô 50g, đậu đen 100g và rau ngót phơi khô sao vàng 200g, dùng sắc uống. Theo tài liệu đã phổ biến nói trên thì “các dạng hôn mê do sốt xuất huyết hoặc tai biến mạch não chưa quá 10 ngày chỉ cần 3 thang, có khi chỉ 1 thang cũng hết bệnh”.

Không ai có thể phủ định một số hiệu quả thực tế của bài thuốc, nhưng không nên thổi phồng tác dụng. Bài này xin cung cấp một số thông tin đáng tin cậy về vị thuốc Giun đất.

Giun đất còn gọi là trùn, giun khoang, địa long, thổ long, khâu dẫn..., là một vị thuốc khá quen thuộc, được sử dụng lâu đời trong Đông y.

Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh, quyển sách thuốc đầu tiên ra đời khoảng hai ngàn năm trước, với tên “bạch cảnh khâu dẫn” nghĩa là trùn có cổ trắng, hay như dân ta quen gọi là trùn khoang cổ, vị thuốc này bị xếp vào loại “hạ phẩm”, theo cách phân loại của sách này chỉ những vị thuốc ít nhiều có độc, không được dùng lâu dài, chủ yếu để trị bệnh chứ ít tác dụng bổ dưỡng.

Nhìn chung, theo tài liệu cổ, giun đất có vị mặn, tính hàn, nhập các kinh Tỳ, Vị, Can, Thận (có tài liệu nói thêm Bàng quang và Phế), có tác dụng thanh nhiệt, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc, định suyễn. Dùng chữa bệnh nhiệt phát cuồng, kinh phong co giật, ho suyễn, yếu liệt nửa người, miệng mắt méo lệch, tiểu tiện khó khăn, phong thấp đau nhức,...

Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc, tác dụng thanh nhiệt (hạ sốt) của giun đất là do thành phần lumbrifebrin; tác dụng phá huyết (làm giảm độ dính của máu và độ ngưng tập của hồng cầu) là do chất lumbritin; tác dụng lợi tiểu, chữa đau nhức khớp xương là do có nhân purin. Các thực nghiệm còn chứng minh các thành phần đạm có trong giun đất có tác dụng kháng histamin (giải độc), làm giãn khí quản, hạ huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non.

Dưới đây là một số ứng dụng lâm sàng đã được chứng minh của giun đất (địa long):

1. Dùng làm thuốc thông kinh hoạt lạc, giảm đau: Sử dụng cho thể thấp nhiệt ứ trệ kinh lạc, khớp xương sưng nóng đỏ đau, tiểu tiện ít mà vàng. Có thể phối hợp với các vị thuốc nhiệt như ô đầu, phụ tử để điều trị đau khớp xương thể hàn thấp.

- Hoạt lạc đơn: Xuyên ô đầu, Thảo ô đầu,  Địa long, Thiên nam tinh mỗi thứ 8g, Nhủ hương, Một dược mỗi thứ 6g. Tất cả tán bột, lấy rượu khuấy hồ làm hoàn. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Kinh giới để trị chứng đau do thấp đàm ứ huyết trở trệ kinh lạc.

- Bổ dương hoàn ngũ thang của tác giả Vương Thanh Nhiệm (1768-1831): Hoàng kỳ 40g, Đương quy vĩ, Xuyên khung, Địa long mỗi thứ 8g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 6g, Xích thược 12g. Sắc uống ngày một thang. Công dụng bổ khí hoạt huyết, hành ứ tán trệ, dùng trị di chứng trúng phong (tai biến mạch máu não): liệt nửa người, miệng mắt méo lệch, nói khó, miệng chảy nước dãi, tiểu không tự chủ... cho kết quả rất tốt.

2. Dùng trị sốt cao, co giật: Có thể chọn một trong các bài sau:

- Địa long tán: Địa long 12g, Toàn yết 4g, Câu đằng 16g, Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 12g. Sắc uống.

- Địa long 12g, Châu sa (thủy phi) 4g. Tán bột làm viên mỗi lần uống 4g.

- Dùng ngoài: Trùn đất sống 160g, Đường đỏ 40g. Giã nhuyễn, bọc vải đắp lên bụng dưới.

3. Dùng làm thuốc lợi tiểu, bí tiểu: Dùng trùn tươi, đầu củ tỏi, lá khoai đỏ lượng vừa đủ giã nhuyễn đắp lên vùng rốn. Dùng trong phối hợp Địa long với thuốc lợi thủy sắc uống trị các chứng phù thũng.

4. Dùng làm thuốc thanh phế bình suyễn: Đối với ho suyễn do hỏa nhiệt thượng viêm, như hen phế quản khó thở, trẻ em ho gà, có thể dùng;

- Địa long 12g sắc uống;

- Hoặc Địa long tán bột mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần;

- Hoặc Địa long và Sinh cam thảo bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 2 lần.

5. Dùng làm thuốc trị cao huyết áp: Tán bột hoặc sắc uống độc vị Địa long. Hoặc phối hợp cùng dùng với các vị Hạ khô thảo, Câu đằng.

6. Dùng làm thuốc trị ung thư: Sách Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách (Học viện Trung y Hồ Nam biên soạn, NXB Vệ sinh Nhân Dân, Bắc Kinh, 1972) giới thiệu một bài thuốc mới được báo cáo có khả năng trị ung thư như sau: Địa long, Ngô công, Phong phòng (tổ ong), Bồ công anh, Bản lam căn, Toàn yết, Xà thoát (xác rắn lột), mỗi thứ 40g, Bạch hoa xà thiệt thảo 320g. Tất cả tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần.

Những bài thuốc trên đây chủ yếu để giới thiệu ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Giun đất (hay Địa long), thầy thuốc có thể tham khảo vận dụng phép gia giảm, điều chế thích hợp với từng người bệnh. Người bệnh không được tự ý sử dụng, bởi không nắm được các chống chỉ định của thuốc. Ví dụ người thể tạng hư hàn (hay sợ lạnh, đi cầu lỏng...) không được dùng.

Như vậy, rõ ràng muốn dùng thuốc đúng, cần phải chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh tật và nắm vững tính năng dược vật cùng cấm kỵ của nó, không thể nhắm mắt dùng bừa theo những đồn đại vô căn cứ. Thuốc luôn là con dao hai lưỡi cần được điều khiển bởi bàn tay lành nghề mới phát huy tác dụng và tránh được tác hại. Và, Đông y là một khoa học thực nghiệm mà tri thức được tích lũy và kiểm chứng qua bề dày hàng ngàn năm chứ không phải là huyền thoại một ngày hay một thời. Mong bạn đọc luôn nhớ cho điều đó!

PHAN CÔNG TUẤN

.